Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Quảng Nam có nhiều thợ dệt tay nghề cao, có thể dệt ra nhiều loại vải tơ lụa "đẹp và khéo không khác gì hàng của tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc", người ta chỉ chọn mua lụa ở hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn.
Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thợ dệt Quảng Nam được tuyển về kinh để dạy cho thợ ở kinh đô nghề dệt vải cải hoa (vải lụa có hoa), được cấp cho nhiều lạng bạc nhằm khen thưởng và khích lệ sự tận tâm truyền nghề của họ.
Triều đình nhà Nguyễn còn đem tơ sống ở kho giao cho thợ Quảng Nam dệt ra trừu, lụa, trả công cho thợ mỗi tấm trừu (dài 18 thước ta) 1 quan 3 tiền; mỗi tấm lụa (30 thước) 3 quan tiền.
Theo "Đại Nam thực lục chính biên", vào năm Tự Đức thứ 18, một số thợ tay nghề cao ở Quảng Nam được rút khỏi các ngạch lính, riêng thợ ở thôn Nam An, Đông Phú, Khương Đông, Phú Trường, Lộc Đông có hàng trăm người sung vào các hộ dệt lụa, sa, trừu mỏng, trơn. Các hộ trưởng được phong hàm cửu phẩm, các đinh trong hộ được miễn sai dịch.
Từ trước đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (con chúa Nguyễn Hoàng), ở hai phủ Điện Bàn, Thăng Hoa đã có nghề tằm tơ. Đất Duy Xuyên bấy giờ là vùng trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa nổi tiếng. Dưới thời Minh Mạng, nhà vua rất khuyến khích nghề tằm tang.
Ngay trong công sảnh tỉnh đường Quảng Nam có nhà nuôi tằm, kéo tơ do một vị quan phụ trách, có các tàm phụ, tàm mẫu giúp việc. Minh Mạng năm thứ 14, quan tỉnh Quảng Nam là Đỗ Khắc Thư dâng 100 cân tơ lên vua.
Vua khen thưởng và bảo với các triều thần rằng: "Lệnh cho các địa phương làm lễ chăn tằm. Các quan đầu tỉnh phải thân hành làm việc hướng dẫn nhân dân. Quảng Nam thu được tơ nhiều như thế, thật là do quan tỉnh gia công khuyến khích nhân dân thừa hành...".
Nấu và chế biến đường lúc bấy giờ được làm nhiều ở huyện Lễ Dương (Thăng Bình), Hà Đông (Tam Kỳ), được triều đình đặt mua hàng năm từ 20 đến 90 vạn cân. Còn mật thô (đường nước đổ ghè) thì các năm Gia Long thứ 11, 12 mua hàng vạn cân.
Minh Mạng năm thứ 6 đến năm thứ 9, chọn 3 thợ giỏi nhất về kinh làm việc, cấp lương hàng tháng 2 quan tiền, 1 phương gạo (khoảng 30 cân). Vua Tự Đức năm thứ 18 lập thêm một hộ làm đường tại Quảng Nam (50 người), mỗi người một năm đóng thuế 40 cân. Hộ trưởng được phong hàm cửu phẩm.
Đường có nhiều loại. Nông dân trồng được nhiều mía tốt, cất trại, xây lò, che ép mía do trâu, bò hoặc dùng sức người kéo. Từ đường non được nấu trong chảo gang to, lọc kỹ rồi đổ thành đường bát (có màu đen, nâu), đường cát (vàng, hoặc trắng), đường phèn, đường phổi.
Nghề chạm khắc đá nổi tiếng nhất ở làng Quán Khái (Ngũ Hành Sơn, huyện Diên Phước). Triều đình Huế quy định thành luật lệ: ở làng này con trai khi đến 18, 19 tuổi phải đăng vào sổ thợ ở kinh đô, không được tự ý đi làm việc ở nha môn khác, để khi cần tuyển mộ thì đáp ứng đủ.
Theo "Hội điển sự lệ", Minh Mạng năm thứ 12 (1831) truyền lệnh cho Quảng Nam căn cứ các mẫu tượng quan văn, võ, lính thị vệ, voi, ngựa để chế tác bằng đá, đưa về kinh đem bày ở lăng Thiên Thụ (tức lăng Gia Long).
Chỉ có tay nghề thợ Quán Khái mới chạm khắc được các loại tượng bằng đá sa thạch, cẩm thạch ở Non Nước, Ngũ Hành Sơn. Đây là loại đá quý có nhiều màu sắc. Đá cẩm thạch làm hàng mỹ nghệ đa dạng như vòng đeo tay, chuỗi cườm trang sức, chim, cá, cảnh, các loài thú lớn nhỏ, được các nước trong khu vực ưa chuộng đặt mua quanh năm.
Nghề đúc đồng làng Phước Kiều, huyện Diên Khánh (Điện Bàn) rất nổi tiếng. Đặc biệt các nghệ nhân có kỹ thuật đúc cồng chiêng và thẩm âm, đạt chuẩn âm thanh theo yêu cầu của bà con các dân tộc Tây Nguyên. Ngoài ra còn có các nghề nấu, đúc các loại đồ dùng bằng đồng, sắt, chì, kẽm, vàng, bạc.
Vua Thiệu Trị năm thứ 13 (1843) ban lệnh: "Phàm thợ nấu kim khí Quảng Nam có người đi làm ăn xa đều phải rút về nguyên quán để bổ vào ngạch thợ", khi ra kinh chia vào các ban làm việc, mỗi tháng được phát 1 quan tiền và 1 phương gạo.
Tự Đức năm thứ 20 (1867) cho lập thêm một Sở đúc vàng tại Quảng Nam (chung cho các tỉnh Nam, Nghĩa, Bình, Phú), chọn một thợ giỏi nhất cử làm Tượng mục, phong trật tòng cửu phẩm. Làng nào cũng có lò rèn chế tác các công cụ sản xuất cho lao động nông tang và các ngành nghề khác.
Cũng theo "Hội điển sự lệ", nghề mộc (đồ gỗ) ở Quảng Nam vừa khéo, vừa tinh xảo, nhiều thợ giỏi, đặc biệt là thợ mộc làng Kim Bồng, huyện Diên Phước. Trong thời gian xây dựng kinh thành Huế, rồi trùng tu, xây dựng lăng miếu, cung điện, vua Gia Long cho điều hàng trăm thợ làng Kim Bồng ra làm việc suốt nhiều năm. Các đời vua sau, cùng phủ đệ của vương công, quận chúa cũng chọn thợ Quảng Nam.
Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) lập Cục thợ mộc thuộc Sở kho gỗ ở kinh đô, định ngạch 471 thợ lành nghề đều lấy người Quảng Nam. Riêng phố cổ Hội An, toàn bộ nhà cổ đều do các tay thợ Kim Bồng và một số nơi khác ở Quảng Nam xây dựng.
Ở làng Thanh Hà (Hội An), có nghề làm đồ gốm nổi tiếng. Đất làm gốm lấy ngay ở quê, than nung lò nhận từ nguồn Thu Bồn xuống. Các khâu làm ra sản phẩm đều bằng tay và phường thợ tự nghĩ ra hình dáng, góc cạnh với màu đất nung đậm nhạt tùy loại.
Dưới thời Minh Mạng, triều đình đã cử quan vào đặt mua các mặt hàng như bát (chén) ăn cơm kiểu chữ phước, lộc, thọ, kiểu trúc điểu (cành trúc và chim), kiểu long ẩn (rồng ẩn trong mây); các bộ đồ uống trà kiểu phước, lộc, thọ, ngư tiều (câu cá, đốn gỗ), kiểu sơn điển thính (chim phí nghe đàn); các loại đôn sứ, chậu hoa, siêu đất, hoa văn... Thời Tự Đức, có thợ gốm Võ Văn Ba, người làng Thanh Hà, từng được gọi ra Huế phục dịch ở lò gốm Long Thọ, cử làm hướng dẫn kỹ thuật.
Từ đời Gia Long năm thứ 6 (1807) khi bắt đầu xây dựng kinh thành Huế, đã lập hai Sở ngói, lấy 600 thợ Quảng Nam ra làm việc. Theo "Đại Nam thực lục", đời Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), lập lệ chọn thợ nung ngói, xây gạch và thợ lợp nhà cũng chọn thợ giỏi Quảng Nam.
Trong "Phủ biên tạp lục" có ghi: Ở làng Hoa Sơn, huyện Tân Phước (tên huyện thời Lê - Trịnh ở phủ Điện Bàn, nay là thôn Yến Nê, huyện Hòa Vang) và làng Bàn Thạch, huyện Duy Xuyên, có nghề dệt chiếu đẹp và tốt nhất. Các hộ dân làm chiếu phải nạp chiếu thay cho thuế thân và được miễn lao dịch.
Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên đán, Quảng Nam phải thu nộp 35 đôi chiếu lác (cói) mềm, 4 đôi chiếu mềm khổ nhỏ, 8 đôi chiếu cù du (thảm lông), 1 đôi chiếu sạp dài, 4 đôi chiếu sạp ngắn, 1 đôi chiếu bạch liên (lác trắng) để bài trí tại Văn miếu, 1 đôi chiếu cù du (thảm lông) cạp lụa huyền, tổng cộng 50 đôi.
Còn phải nộp 75 đôi chiếu trắng khác cho công đường các phủ, cùng chùa miếu ở các địa phương. Riêng chiếu hoa (gồm các chữ phước, lộc, thọ; điểu, mai, cúc, trúc; rồng, cá...) cũng bằng cây đay, lác nhuộm dệt thành, hoặc in nhiều màu.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.