>> PHẦN III: VÕ THUẬT VỚI GIANG HỒ
Trên giang hồ, xuân điển có hai hình thức: Bằng ngôn ngữ (tiếng lóng) và bằng trà trận, lộ phù và phù trưng (phù hiệu trên đường và phù hiệu đặc trưng tạo nên ngôn ngữ bí mật của giang hồ, nhất là trong xã hội cận đại càng được các bang phái, hội đoàn sử dụng rộng rãi.
Trà
trận là cách bày bình trà, chén trà theo một quy tắc nhất định khi giao tiếp,
dựa vào đó để nhận biết đối phương là người cùng bang, cùng hội hay thuộc bang
nào, hội phái nào? Người bôn tẩu trong giang hồ phải nhất định phải nắm được
những trận pháp này mới mong tồn tại. Trong phim ảnh võ thuật Trung Hoa đều
phản ánh những tình tiết thú vị này.
Khi
gặp bạn giang hồ, chủ thường mang ấm chén, pha trà ra tiếp, khách có yêu cầu gì
thì phải bày trận trà bằng cách sắp xếp ấm chén sao cho đúng ám hiệu, đúng yêu
cầu mình cần để qua đó theo dõi cách uống của chủ mà nhận biết cách đối xử của
chủ.
Trà
trận ban đầu thường dùng như đấu pháp, lấy đấu trí làm chủ, mượn những điển
tích trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa để gọi tên. Về sau phát triển thành
phương thức giao lưu tư tưởng trong nội bộ một số bang hội lớn của người Hoa. Ở
đây phản ánh sơ qua về trà trận của hội Tam Hoàng, Hội Kha lão và Thiên địa
hội.
Trà
trận của hội Tam Hoàng – hội kín có lượng hội viên rất lớn, lên tới hàng trăm
ngàn người trên khắp thế giới- chủ yếu có Đơn tiên trận, trận “thuận nghịch”
(xuôi ngược), trận “lưỡng long tranh châu” (hai rồng tranh ngọc), trận “đảng
trung nghĩa”, trận chữ Phẩm, trận chữ Sơn, trận Quan Công giữ Kinh Châu, trận
Lưu Tú qua cửa ải, trận “Triệu Vân kết bạn”, trận “Anh hùng bát sách”, trận
“Triệu Vân cứu A Đẩu”, trận “Khổng Minh lên đài lệnh các tướng”, trận “Thất
tinh kiếm”, trận “Thái Âm”… Các trận đều có hàm nghĩa riêng, chỉ có dựa theo
yêu cầu mà làm mới có thể liên hệ được với người khác. Ví dụ:
Trận Đơn tiên
Trận
đơn tiên (một roi): Một chén đổ đầy trà một bình trà là biểu thị ý cầu cứu người khác; người thấy có thể cứu
giúp được thì lập tức uống cạn chén trà, nếu không cứu được thì đổ chén trà đi
rồi rót chén khác mà uống.
Trận “Lưu Tú qua ải”
Trận
“Lưu Tú qua ải”: Người nhận trà phải uống chén trà nào ở gần mình nhất rồi đem các chén
còn lại xếp thành một hàng, miệng nói: “Lưu, Quan, Trương trích huyết thề,
không thể không làm một hàng”. Nếu như nguyên đã xếp thành một hàng rồi là có ý
xin cứu viện. Nếu không có ý đáp ứng mà từ chối thì cứ theo cách xếp cũ uống
hết nước trà là được.
Trận “Bốn trung thân”
Trận
“Bốn trung thân”: Bình và bốn chến trà xếp một hàng. Trận này bày ra chỉ về thời gian cứu viện. Nếu là người
đến gửi gắm vợ con mà ưng thuận thì cầm chến trà đầu tiên bên trái uống cạn;
nếu là vay tiền mà ưng lời yêu cầu đó thì nhấc chén thứ hai uống cạn; nếu là
việc cứu tính mạng anh em thì uống chén thứ ba; nếu là lí do đi cứu tính mạng
anh em đang rất nguy cấp thì uống chén thứ tư.
Nếu không thể hoặc không muốn
đáp ứng các yêu cầu đó thì thay đổi cách săp xếp, vị trí các chén trà rồi sau
đó mới uống.
Trận
“Anh hùng bát sách”: Không có bình trà, bốn chén xếp. Nhặt hai chén trà ở gần mình nhất mà uống, nếu đối diện có
người lấy thì mình ở vị trí hậu phương, nếu người đối diện xếp hai chén của họ
vào vị trí hậu phương thì mình lập tức uống ngay hai vị trí đó. Như vậy nghĩ là
hai người cùng là thành viên của Hội.
Trà
trận của Hội Kha lão chủ yếu là trận “Tứ
bình bát ổn”, trận Nhất long, Song long, trận đào viên, trận long cung, trận
sinh khắc, trận Mai hoa, trận Bảo kiếm, trận Lương Sơn…
Trà
trận của Thiên Địa hội (Hội những người có tư tưởng phản Thanh phục Minh nổi
tiếng) còn phức tạp hơn. Hình thức thì đa dạng, có trận “trung gian”, trận “Công
phá thành Tử Kim”, trận “Tuyệt Thanh”, “Thất tán Thâm Châu”, “Kết nghĩa vườn
đào”, Trười trăng che lẫn nhau”, “Mai hoa”, “Ngũ tổ”, “Lục Lang trấn thủ Tam
Quan”, “Tám tiên về núi”, “Bảo kiếm long tuyền”, “Hợp quân diệt Thanh”…
Trận ‘Anh hùng bát sách”
Như
vậy, trà trận đều dùng các vật như khay, bình, chén… tổ hợp lại những hình trận
theo những loại định chế của từng bang hội, từ đó cấu tạo nên loại hình mật ngữ
(lời bí mật), ám hiệu mà không cần phải nói ra. Thành viên trong các bang hội
đi lại trong giang hồ chỉ cần nhận biết những ám hiệu bí mật trên tường, vật
treo trước cửa nhà, hình vẽ trên đường (lộ phù) để nhận biết đồng môn. Sau đó
giao tiếp bằng trà trận để thể hiện những yêu cầu của mình hoặc thông báo của
bang hội và nhận lại sự đáp lễ của chủ nhà.
XEM THÊM:
>> Ám khí – “thần hộ mệnh” của võ lâm giang hồ
>> Tiêu sư và những điều kiêng kị phải trả bằng máu trên giang hồ
Chu Hồng Châu (tổng hợp) (Chu Hồng Châu (tổng hợp))
Vui lòng nhập nội dung bình luận.