Một năm sau Chiến sự Nga - Ukraine: Sức mạnh kinh tế Nga bị xói mòn và nỗi đau của Ukraine

Huỳnh Dũng Thứ năm, ngày 23/02/2023 06:00 AM (GMT+7)
Vào ngày 24/2/2023 đánh dấu tròn một năm kể từ khi cuộc tấn công toàn diện của Nga vào Ukraine bắt đầu, vốn châm ngòi cho cuộc xung đột vũ trang lớn nhất ở châu Âu kể từ Thế chiến II. Một năm nhìn lại cuộc chiến này để thấy sai lầm của Tổng thống Putin, sức mạnh kinh tế Nga bị xói mòn và nỗi đau của Ukraine.
Bình luận 0

Không ai miễn nhiễm trước tác động của xung đột Nga-Ukraine

Thiệt hại kinh tế do gián đoạn nguồn cung gây ra bởi sự hợp lưu của các sự kiện xung quanh cuộc tấn công của Nga vào Ukraine đã và đang nghiêm trọng ở một số quốc gia và ngành công nghiệp. Hay nói rõ hơn thì nó ít nghiêm trọng hơn ở những quốc gia khác tùy thuộc vào độ sâu và bề rộng của mối quan hệ kinh tế, chủ yếu là với Nga do quy mô của nước này, và mức độ hội nhập với thị trường hàng hóa và tài chính toàn cầu.

Ngày 24 tháng 2 năm 2023 sẽ đánh dấu một năm kể từ khi Tổng thống Nga Vladimir Putin ra lệnh tiến hành một cuộc tấn công toàn diện vào Ukraine. Ảnh: @ANTHONY GERACE.

Ngày 24 tháng 2 năm 2023 sẽ đánh dấu một năm kể từ khi Tổng thống Nga Vladimir Putin ra lệnh tiến hành một cuộc tấn công toàn diện vào Ukraine. Ảnh: @ANTHONY GERACE.

Thật khó để tưởng tượng ra những hoàn cảnh mà bất kỳ quốc gia nào có thể thoát khỏi tác động kinh tế ngắn hạn của cuộc khủng hoảng Ukraine trong thế giới toàn cầu hóa này suốt một năm qua.

Tác động không chỉ do sự gián đoạn do chiến sự gây ra mà còn do các biện pháp trừng phạt kinh tế đa dạng đối với Nga do Mỹ, EU, Anh, Nhật Bản và một số nước khác áp đặt. Ngay cả Thụy Sĩ trung lập cũng đã áp dụng các biện pháp trừng phạt của EU.

Các ngân hàng toàn cầu đang chuẩn bị cho tác động của các biện pháp trừng phạt nhằm hạn chế khả năng tiếp cận vốn nước ngoài của Nga, và hạn chế khả năng xử lý các khoản thanh toán bằng đô la, euro, bảng Anh và đồng rúp của Nga, vốn rất quan trọng đối với thương mại. Phần lớn nền kinh tế Nga sẽ là khu vực cấm đối với các ngân hàng và công ty tài chính sau quyết định cắt đứt một số ngân hàng của nước này khỏi hệ thống SWIFT.

Tình hình đã khiến một danh sách ngày càng nhiều các tập đoàn đa quốc gia lớn xa lánh Nga, vì lo ngại về rủi ro tài chính và uy tín của họ. Trong số những loại hình khác, các công ty dầu mỏ và công nghệ cao của phương Tây đã cắt đứt hoặc hạn chế quan hệ với nền kinh tế Nga.

Thị trường năng lượng đã chịu áp lực kể từ khi Nga xâm lược Ukraine. Trong ảnh là một cơ sở lưu trữ dầu ở Nakhodka, Nga. Ảnh: @ALAMY.

Thị trường năng lượng đã chịu áp lực kể từ khi Nga chiến tranh tại Ukraine. Trong ảnh là một cơ sở lưu trữ dầu ở Nakhodka, Nga. Ảnh: @ALAMY.

Các công ty thẻ thanh toán của Hoa Kỳ Visa và Mastercard đã chặn nhiều tổ chức tài chính của Nga khỏi mạng lưới của họ. Công ty vận tải khổng lồ Maersk đã tạm dừng tất cả các đợt giao hàng vận chuyển container đến và đi từ Nga.

Cuộc khủng hoảng cũng đang đè nặng lên thị trường vì vai trò trung tâm của Nga là nhà sản xuất năng lượng toàn cầu. Nga là nhà sản xuất dầu lớn thứ ba mà nền kinh tế toàn cầu tiêu thụ. Chi phí năng lượng tăng cao đã và đang lan truyền nhanh chóng trong nền kinh tế toàn cầu, thúc đẩy lạm phát hơn nữa. Kể từ tháng 12/2022, giá dầu đã tăng hơn 40%. Việc phát hành từ dự trữ dầu toàn cầu chỉ có thể tạm thời làm giảm bớt sự thiếu hụt.

Các biện pháp trừng phạt có thể làm gián đoạn khả năng xuất khẩu các mặt hàng khác của Nga, bao gồm khí đốt tự nhiên và lúa mì. Dự trữ khí đốt tự nhiên đang cạn kiệt. Nga lại là nhà cung cấp lúa mì lớn nhất thế giới và cùng với Ukraine chiếm gần 1/4 tổng xuất khẩu toàn cầu. Các mặt hàng khác gắn liền với Nga và Ukraine, chẳng hạn như vàng, nhôm, ngô và niken, đã được giao dịch ở mức giá cao nhất trong nhiều năm kể từ khi nổ ra cuộc xung đột.

Nga đã cấm các hãng hàng không từ 36 quốc gia, bao gồm các quốc gia châu Âu và Canada, vào không phận có mật độ hoạt động cao, sau khi EU có hành động tương tự đối với các hãng hàng không Nga. Bằng cách buộc các hãng hàng không lớn thực hiện các tuyến đường dài hơn, vòng quanh hơn đến châu Á và Trung Đông, điều này sẽ làm tăng giá vé cho khách du lịch. Có thể có sự trả đũa khác của Nga trong những tháng tới nên có thể làm tăng chi phí và rủi ro trong kinh doanh quốc tế nói chung.

Mọi người làm việc bên trong một tiệm bánh ở Lagos, Nigeria, ngày 3 tháng 2 năm 2023. Gần một năm sau khi Nga xâm chiếm Ukraine, nền kinh tế toàn cầu vẫn đang phải gánh chịu hậu quả - nguồn cung ngũ cốc, phân bón và năng lượng bị cạn kiệt cùng với lạm phát gia tăng và tình trạng bất ổn kinh tế. Ảnh: @AP Photo/Sunday Alamba.

Mọi người làm việc bên trong một tiệm bánh ở Lagos, Nigeria, ngày 3 tháng 2 năm 2023. Gần một năm sau khi Nga xâm chiếm Ukraine, nền kinh tế toàn cầu vẫn đang phải gánh chịu hậu quả - nguồn cung ngũ cốc, phân bón và năng lượng bị cạn kiệt cùng với lạm phát gia tăng và tình trạng bất ổn kinh tế. Ảnh: @AP Photo/Sunday Alamba.

Kinh tế Nga tự thiêu như thế nào một năm sau khi Putin khởi xướng cuộc chiến tại Ukraine

Một năm sau cuộc chiến tại Ukraine của Putin, một số người hoài nghi than thở rằng, chiến dịch gây áp lực kinh tế chưa từng có đối với Nga vẫn chưa chấm dứt chế độ Putin. Nhưng những gì họ đang bỏ lỡ là sự chuyển đổi đã xảy ra ngay trước mắt chúng ta: "Nga đã trở thành một cường quốc kinh tế bị suy giảm và là một cường quốc thế giới đang bập bênh thất thường".

Cùng với những sai lầm của chính Putin, áp lực kinh tế đã làm xói mòn sức mạnh kinh tế của Nga khi các máy bay chiến đấu dũng cảm của Ukraine, hay hệ thống HIMARS, xe tăng Leopard và tên lửa PATRIOT đã ngăn chặn nhất định quân đội Nga trên chiến trường. Trong một năm vừa qua, bộ máy kinh tế của Nga đã bị suy yếu ra sao, tất cả đều có trong bản tóm tắt nghiên cứu ban đầu của Viện Lãnh đạo Giám đốc Điều hành Yale.

Nga mất vĩnh viễn hơn 1.000 doanh nghiệp đa quốc gia toàn cầu, cùng với các biện pháp trừng phạt kinh tế leo thang

Hơn 1.200 công ty toàn cầu đã tự nguyện chọn rời khỏi Nga trong một cuộc di cư hàng loạt chưa từng có trong lịch sử vào những tuần sau tháng 2 năm 2022, như Viện Lãnh đạo Giám đốc Điều hành Yale đã ghi lại và cập nhật một cách trung thực cho đến ngày 21/2/2023, phần lớn đã giữ đúng cam kết của họ và đã thoái vốn hoàn toàn hoặc đang trong quá trình tách hoàn toàn khỏi Nga và cũng không có kế hoạch quay trở lại nữa.

Những công ty này vốn có doanh thu trong nước tương đương 35% GDP của Nga, sử dụng 12% lực lượng lao động của đất nước, cùng với việc áp đặt các biện pháp trừng phạt lâu dài của chính phủ quốc tế về quy mô và phạm vi, bao gồm kiểm soát xuất khẩu đối với các công nghệ nhạy cảm, các hạn chế đối với giới tinh hoa Nga và tịch thu tài sản, trừng phạt tài chính, cố định tài sản của ngân hàng trung ương Nga và loại bỏ các ngân hàng chủ chốt của Nga khỏi SWIFT, với nhiều biện pháp trừng phạt hơn đã được lên kế hoạch.

Trong khi đó, doanh thu năng lượng giảm mạnh nhờ G7 áp trần giá dầu và canh bạc khí đốt tự nhiên lại bị chọc thủng của Putin.

Nền kinh tế Nga từ lâu đã bị chi phối bởi dầu mỏ và khí đốt, chiếm hơn 50% doanh thu của chính phủ, hơn 50% thu nhập xuất khẩu và chiếm gần 20% GDP mỗi năm.

Trong những tháng đầu tiên sau cuộc xâm lược, thu nhập từ năng lượng của Putin tăng vọt. Giờ đây, theo các nhà kinh tế của Deutsche Bank, Putin đã mất 500 triệu đô la mỗi ngày từ xuất khẩu dầu khí so với mức cao nhất của năm ngoái, con số này nhanh chóng đi xuống.

Sự suy giảm nhanh chóng đã được đẩy nhanh bởi những sai lầm của chính Putin. Putin lạnh lùng từ chối vận chuyển khí đốt tự nhiên từ châu Âu – nơi trước đây chiếm 86% doanh số bán khí đốt của Nga – với hy vọng những người châu Âu trước mùa đông sẽ tức giận và thay thế các nhà lãnh đạo được bầu của họ. Tuy nhiên, mùa đông ấm hơn bình thường và nguồn cung nhiên liệu LNG toàn cầu tăng lên đồng nghĩa với việc Putin hiện đã vĩnh viễn mất đi vị thế của Nga với tư cách là nhà cung cấp chính cho châu Âu, với mức độ phụ thuộc vào năng lượng của Nga giảm xuống còn chỉ còn 7% – và sẽ sớm về 0. Với cơ sở hạ tầng đường ống hạn chế để xoay trục sang châu Á, Putin hiện chỉ kiếm được 20% thu nhập từ khí đốt trước đây của mình.

Tuy nhiên, sự sụp đổ năng lượng của Nga cũng được kích hoạt bởi chính sách ngoại giao quốc tế khôn ngoan. Việc giới hạn giá dầu của nhóm các nước G7 đã đạt được sự cân bằng không thể tưởng tượng được trong việc giữ cho dầu của Nga chảy vào thị trường toàn cầu, mà đồng thời cắt giảm lợi nhuận của Putin.

Xuất khẩu dầu của Nga đã ổn định một cách đáng kinh ngạc ở mức trước chiến sự khoảng 7 triệu thùng mỗi ngày, đảm bảo sự ổn định của thị trường dầu mỏ toàn cầu, nhưng sau khi chiến sự nổ ra, giá trị xuất khẩu dầu của Nga đã giảm từ 600 triệu đô la một ngày xuống còn 200 triệu đô la một ngày theo tiêu chuẩn định giá của dầu Urals đã giảm xuống còn khoảng 45 đô la một thùng, chỉ cao hơn một chút so với mức giá hòa vốn của Nga là khoảng 42 đô la một thùng.

Ngay cả các quốc gia bên lề kế hoạch trần giá, chẳng hạn như Ấn Độ và Trung Quốc, cũng lợi dụng liên minh nhóm bên mua G7 để đảm bảo nguồn cung của Nga với mức chiết khấu sâu lên tới 30%.

Nhân tài và vốn tháo chạy

Kể từ tháng 2/2022, hàng triệu người Nga đã bỏ nước ra đi. Cuộc di cư của khoảng 500.000 công nhân lành nghề vào tháng 3/2022 đã được cộng thêm bởi cuộc di cư của ít nhất 700.000 người Nga sau đó, chủ yếu là nam giới trong độ tuổi lao động chạy trốn khỏi khả năng phải nhập ngũ, sau lệnh động viên một phần vào tháng 9/2022 của Putin. Chỉ riêng Kazakhstan và Georgia, mỗi nơi đã tiếp nhận ít nhất 200.000 người Nga mới chạy trốn tuyệt vọng không muốn chiến đấu ở Ukraine.

Hơn nữa, những người Nga chạy trốn đang khao khát nhét tiền vào túi khi họ thoát khỏi sự cai trị của Putin. Hoạt động kiều hối đến các nước láng giềng đã tăng hơn 10 lần. Trong khi đó, những nơi trú ẩn ở nước ngoài dành cho những người Nga giàu có như UAE đang bùng nổ, với một ước tính cho rằng 30% những cá nhân giàu có của Nga đã bỏ trốn.

Putin đang nhanh chóng khiến Nga không còn liên quan đến nền kinh tế thế giới

Nga trong lịch sử cũng là nhà cung cấp hàng hóa hàng đầu cho nền kinh tế thế giới, với thị phần hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp và kim loại. Nhưng Putin đang nhanh chóng khiến Nga không còn liên quan đến nền kinh tế thế giới vì người tiêu dùng luôn dễ dàng thay thế các nhà cung cấp hàng hóa không đáng tin cậy, hơn là các nhà cung cấp tìm kiếm thị trường mới.

Putin đang nhanh chóng khiến Nga không còn liên quan đến nền kinh tế thế giới.

Putin đang nhanh chóng khiến Nga không còn liên quan đến nền kinh tế thế giới. Ảnh: @Google.

Các chuỗi cung ứng đã thích nghi bằng cách phát triển nguồn cung ứng thay thế không phụ thuộc vào ý thích bất chợt của Putin. Viện Lãnh đạo Giám đốc Điều hành Yale đã chỉ ra làm thế nào trong một số thị trường năng lượng và kim loại quan trọng, sản lượng tổng hợp của các dự án phát triển nguồn cung mới sẽ được mở trong hai năm tới có thể thay thế hoàn toàn và vĩnh viễn sản lượng của Nga trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ngay cả các đối tác thương mại còn lại của Nga dường như cũng thích mua hàng hóa Nga trong thời gian ngắn, mang tính cơ hội để tận dụng giá giảm, hơn là đầu tư vào các hợp đồng dài hạn hoặc phát triển nguồn cung mới của Nga.

Mặt khác, có vẻ như Nga đang trên đường hướng tới nỗi sợ hãi tồi tệ nhất từ lâu: trở thành nước phụ thuộc kinh tế yếu kém vào Trung Quốc – nguồn nguyên liệu thô giá rẻ của nước này.

Nền kinh tế Nga đang được Điện Kremlin chống đỡ

Điện Kremlin đã phải hỗ trợ nền kinh tế bằng các biện pháp leo thang, và sự kiểm soát của Điện Kremlin ngày càng len lỏi vào mọi ngóc ngách của nền kinh tế với ngày càng ít không gian dành cho sự đổi mới của khu vực tư nhân.

Putin đã buộc phải truy quét kho bạc của các công ty Nga trong cái mà ông gọi là "huy động doanh thu" khi lợi nhuận năng lượng giảm, trích một khoản thuế khổng lồ 1,25 nghìn tỷ rúp từ kho bạc công ty của Gazprom với nhiều cuộc truy quét hơn được lên lịch.

Mặc dù năm 2023 sẽ làm trầm trọng thêm từng xu hướng này và tiếp tục giáng đòn xuống nền kinh tế Nga, nhưng thậm chí Nga còn có thể làm nhiều việc khắt nghiệt hơn nữa để xoa dịu những vết trượt.

Một người đàn ông đi ngang qua một văn phòng đổi tiền ở trung tâm Moscow vào ngày 28 tháng 2, khi đồng rúp của Nga mất giá so với đồng đô la và đồng euro để đáp trả các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với cuộc xâm lược Ukraine. Ảnh: @ALEXANDER NEMENOV/AFP QUA GETTY IMAGES.

Một người đàn ông đi ngang qua một văn phòng đổi tiền ở trung tâm Moscow vào ngày 28 tháng 2, khi đồng rúp của Nga mất giá so với đồng đô la và đồng euro để đáp trả các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với cuộc xâm lược Ukraine. Ảnh: @ALEXANDER NEMENOV/AFP QUA GETTY IMAGES.

Thâm hụt ngân sách của Nga đã tăng lên. Nhưng các nhà kinh tế nói rằng. Moscow sẽ không sớm cạn kiệt kho tài trợ chiến sự của mình

Những tháng tới sẽ rất quan trọng trong việc tìm hiểu xem nền kinh tế Nga đang đứng vững như thế nào, khi đối mặt với một loạt các biện pháp trừng phạt mới, và nước này có thể tiếp tục đổ tiền vào cuộc tấn công quân sự vào Ukraine trong bao lâu.

Thâm hụt ngân sách của Nga đạt mức kỷ lục 1,8 nghìn tỷ rúp Nga (24,4 triệu USD) trong tháng 1/2023, với chi tiêu tăng 58% so với năm trước trong khi doanh thu giảm hơn 1/3.

Sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ trong tháng 12/2022 giảm xuống mức tồi tệ nhất so với cùng kỳ năm trước đó kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào đầu năm 2020, với doanh số bán lẻ giảm 10,5% so với cùng kỳ năm trước đó, trong khi sản xuất công nghiệp giảm 4,3%, so với mức giảm 1,8% trong tháng 11/2021.

Theo Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), GDP của Nga đã giảm ít nhất từ 2,2% tới 3,9% trong năm 2022, đồng thời được dự báo sẽ tiếp giảm sâu thêm vào năm 2023.

Tuy nhiên, cả bộ tài chính Nga và ngân hàng trung ương đều khẳng định rằng tất cả những điều này đều nằm trong mô hình kiểm soát của họ.

Giảm khả năng tiếp cận công nghệ

Demarais, tác giả của một cuốn sách về tác động toàn cầu của các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ, nhắc lại rằng thiệt hại lâu dài đáng kể nhất sẽ đến từ việc Nga giảm khả năng tiếp cận công nghệ và chuyên môn, từ đó gây ra sự tiêu hao dần nguồn vốn kinh tế chính của nước này, đó là  ngành năng lượng.

Bà giải thích, mục đích của cuộc tấn công dữ dội vào các biện pháp trừng phạt không phải là "sự sụp đổ của nền kinh tế Nga" hay sự thay đổi chế độ trước mắt, mà là sự suy giảm dần dần khả năng tiến hành chiến tranh của Nga ở Ukraine từ góc độ tài chính và công nghệ.

"Khoảng cách về công nghệ, những lĩnh vực của nền kinh tế phụ thuộc vào việc tiếp cận công nghệ phương Tây nói riêng, hoặc chuyên môn của phương Tây, trong nhiều lĩnh vực chắc chắn sẽ bị suy thoái và khoảng cách giữa họ với phần còn lại của thế giới sẽ ngày càng lớn", Weafer nói thêm.

Chính phủ Nga đã bắt đầu một chương trình nội địa hóa và thay thế nhập khẩu cùng với các công ty ở các quốc gia được gọi là thân thiện, với mục tiêu cuối cùng là tạo ra một cơ sở hạ tầng công nghệ mới trong vài năm tới.

Weafer giải thích: "Ngay cả những người lạc quan cũng nói rằng, có lẽ phải đến cuối thập kỷ này điều đó mới có thể được thực hiện, đây không phải là cách khắc phục nhanh chóng.

Nền kinh tế Ukraine suy giảm hơn 30% vào năm 2022

Theo Bộ Kinh tế nước này, nền kinh tế Ukraine đã suy giảm hơn 30% vào năm 2022 sau khi cuộc xâm lược tàn bạo của Nga phá hủy cơ sở hạ tầng, làm tổn thương các doanh nghiệp và làm gián đoạn cuộc sống hàng ngày.

Bộ trưởng Kinh tế Yulia Svyrydenko cho biết: "Trong năm 2022, nền kinh tế Ukraine đã chịu tổn thất và thiệt hại lớn nhất trong lịch sử độc lập của nước này".

Mức giảm 30,4% dự kiến trong tổng sản phẩm quốc nội đỡ hơn nhiều so với lo ngại của các chuyên gia ngay sau cuộc xâm lược của Nga vào tháng 2/ 2022. Vào thời điểm đó, nhiều người dự đoán rằng sản lượng kinh tế của Ukraine sẽ giảm từ 40% đến 50%.

Quang cảnh một tòa nhà dân cư bị phá hủy ở Borodianka, Ukraine, vào ngày 5 tháng 4 năm 2022. ẢNH: @ANASTASIA VLASOVA/GETTY.

Quang cảnh một tòa nhà dân cư bị phá hủy ở Borodianka, Ukraine, vào ngày 5 tháng 4 năm 2022. ẢNH: @ANASTASIA VLASOVA/GETTY.

"Những thành công của lực lượng phòng vệ Ukraine trên chiến trường, công việc phối hợp của chính phủ và doanh nghiệp, tinh thần bất khuất của người dân, tốc độ khôi phục cơ sở hạ tầng quan trọng bị phá hủy/hư hại bởi các dịch vụ trong nước, cũng như hỗ trợ tài chính có hệ thống từ quốc tế, các đối tác đã cho phép chúng tôi giữ vững mặt trận kinh tế và tiếp tục tiến tới chiến thắng," Svyrydenko nói.

Tuy nhiên, Bộ cảnh báo rằng các cuộc tấn công tên lửa từ Nga "tiếp tục gây áp lực lên tâm lý và hoạt động kinh doanh".

Thiệt hại và khả năng phục hồi

Triển vọng kinh tế của Ukraine sụp đổ sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin phát động một cuộc tấn công tổng lực cách đây 1 năm, khiến hàng nghìn dân thường thiệt mạng, hàng triệu người Ukraine phải di tản và gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la.

Cơ sở hạ tầng năng lượng trong nước gần đây đã bị ảnh hưởng nặng nề khi quân đội của Putin tìm cách nhấn chìm các thành phố Ukraine trong bóng tối và lạnh giá trong mùa đông.

Chi phí tái thiết và phục hồi ở Ukraine được đưa ra vào khoảng 349 tỷ đô la trong một đánh giá vào tháng 9/2022 từ Ngân hàng Thế giới, Ủy ban Châu Âu và chính phủ Ukraine. Cuộc chiến đang diễn ra phức tạp sẽ làm tăng con số này kể từ thời điểm đó.

Tuy nhiên, nền kinh tế của đất nước đã tỏ ra kiên cường hơn so với dự đoán ban đầu. Timothy Ash, chiến lược gia cấp cao về thị trường mới nổi tại BlueBay Asset Management, cho biết phần còn lại "đã tìm ra cách để tiếp tục. Họ đang chuyển đổi từ nền kinh tế thời bình sang nền kinh tế thời chiến", ông nói.

Xây dựng lại đường sắt, các tòa nhà và hệ thống điện đang hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Ash lưu ý rằng GDP có thể tăng lên vào năm 2023 khi so sánh với mức cơ sở ảm đạm của năm 2022.

Điều quan trọng là cơ sở hạ tầng tài chính của đất nước vẫn còn nguyên vẹn, cho phép người dân và doanh nghiệp tiếp tục thực hiện thanh toán. Chính phủ vẫn có thể thu thuế và huy động tiền để hỗ trợ quân đội của mình.

"Hệ thống ngân hàng đã mạnh và hoạt động không có hạn chế về chức năng trong suốt cuộc chiến", Andriy Pyshnyy, thống đốc Ngân hàng Quốc gia Ukraine, gần đây đã nói với Quỹ Tiền tệ Quốc tế. "Hầu như tất cả các ngân hàng, không chỉ các ngân hàng quan trọng về mặt hệ thống- đã tiếp tục hoạt động. Đây là một lợi thế lớn cho Ukraine".

Hàng chục tỷ đô la viện trợ nước ngoài từ phương Tây cũng đóng một vai trò quan trọng, cho phép chính phủ Ukraine tiếp tục cung cấp dịch vụ.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky phát biểu trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc qua liên kết video ở New York vào ngày 5 tháng 4 năm 2022. ẢNH: @SPENCER PLATT/GETTY.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky phát biểu trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc qua liên kết video ở New York vào ngày 5 tháng 4 năm 2022. ẢNH: @SPENCER PLATT/GETTY.

Một thỏa thuận đột phá với Nga để khởi động lại các chuyến hàng ngũ cốc qua Biển Đen đã giúp ích cho ngành nông nghiệp lớn của Ukraine trong những tháng gần đây. Nhưng xuất khẩu các sản phẩm như lúa mì vẫn thấp hơn nhiều so với trước khi chiến sự bắt đầu.

Chiến tranh Ukraine sau 1 năm: Nỗi đau, sức bật của kinh tế toàn cầu

Một góa phụ Ai Cập đang phải vật lộn để mua thịt và trứng cho năm đứa con của mình. Một chủ tiệm giặt ủi người Đức bực tức nhìn hóa đơn tiền điện của mình tăng gấp năm lần. Còn các tiệm bánh ở Nigeria đã phải đóng cửa vì không đủ khả năng mua bột mì với giá nguyên liệu cắt cổ.

Một năm sau khi Nga xâm lược Ukraine vào ngày 24 tháng 2 năm 2022 và gây ra nhiều đau khổ, nền kinh tế toàn cầu vẫn đang phải gánh chịu hậu quả - nguồn cung ngũ cốc, phân bón và năng lượng bị cạn kiệt cùng với lạm phát gia tăng, và sự bất ổn kinh tế trong một thế giới vốn giờ đây đã và đang phải đối mặt với quá nhiều bất trắc.

Nông dân Jose Francisco Sanchez lái máy kéo phun phân bón cho lúa mạch ở Anchuelo, ngoại ô Madrid, Tây Ban Nha ngày 7 tháng 2 năm 2023. Tại Tây Ban Nha, chính phủ đang chi 300 triệu euro (320 triệu USD) để giúp nông dân mua phân bón, giá của nó đã tăng gấp đôi kể từ cuộc chiến ở Ukraine. (Ảnh AP/Paul White).

Nông dân Jose Francisco Sanchez lái máy kéo phun phân bón cho lúa mạch ở Anchuelo, ngoại ô Madrid, Tây Ban Nha ngày 7 tháng 2 năm 2023. Tại Tây Ban Nha, chính phủ đang chi 300 triệu euro (320 triệu USD) để giúp nông dân mua phân bón, giá của nó đã tăng gấp đôi kể từ cuộc chiến ở Ukraine. (Ảnh AP/Paul White).

Mặc dù tác động của chiến sự vẫn ảm đạm như vậy, nhưng có một điều an ủi. Đó là các công ty và quốc gia ở các nước phát triển đã tỏ ra kiên cường một cách đáng kinh ngạc, cho đến nay vẫn tránh được kịch bản tồi tệ nhất là suy thoái kinh tế thực sự. Nhưng ở các nền kinh tế mới nổi, nỗi đau này lại còn dữ dội hơn.

Ở Ai Cập, nơi gần 1/3 dân số sống trong nghèo đói, Halima Rabie đã phải vật lộn trong nhiều năm để nuôi 5 đứa con đang tuổi đi học của mình. Giờ đây, góa phụ 47 tuổi đã cắt giảm ngay cả những nhu yếu phẩm cơ bản nhất khi giá cả tiếp tục tăng.

"Thật không thể chịu nổi", Rabie nói, cô ấy vốn bắt đầu công việc dọn dẹp tại một bệnh viện do nhà nước điều hành ở thành phố song sinh Giza của Cairo. "Thịt và trứng đã trở thành một thứ xa xỉ".

Tại Ai Cập, nước nhập khẩu lúa mì số 1 thế giới, Rabie đã nhận công việc thứ hai tại một phòng khám tư nhân vào tháng 7/2022 nhưng vẫn phải vật lộn để theo kịp giá cả tăng cao. Cô ấy kiếm được ít hơn 170 đô la một tháng.

Rabie cho biết, cô nấu thịt mỗi tháng một lần và sử dụng các sản phẩm phụ rẻ hơn để đảm bảo con cô có đủ protein. Nhưng ngay cả những thứ đó đang trở nên khó tìm hơn.

Chính phủ kêu gọi người dân Ai Cập dùng thử chân và cánh gà như một nguồn protein thay thế - một gợi ý vấp phải sự khinh bỉ trên mạng xã hội nhưng điều đó cũng dẫn đến nhu cầu tăng đột biến. "Ngay cả chân gà cũng trở nên đắt đỏ", Rabie nói.

Tại Hoa Kỳ và các quốc gia giàu có khác, sự gia tăng đau đớn của giá tiêu dùng, được thúc đẩy một phần bởi ảnh hưởng của chiến sự đối với giá dầu, nhưng nó đã giảm dần. Người ta hy vọng rằng, công cuộc chống lạm phát của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ sẽ giảm bớt việc tăng lãi suất có nguy cơ đẩy nền kinh tế lớn nhất thế giới vào suy thoái, và khiến các loại tiền tệ khác sụt giảm so với đồng đô la.

Trung Quốc cũng đã bỏ các biện pháp phong tỏa hà khắc để ngăn ngừa COVID vào cuối năm ngoái, dù chính sách này đã ít nhiều cản trở sự tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai.

Không thể phủ nhận rằng, có một số điều may mắn cũng đã giúp ích: Một mùa đông ấm hơn bình thường đã giúp giảm giá khí đốt tự nhiên, và hạn chế thiệt hại từ cuộc khủng hoảng năng lượng, sau khi Nga cắt phần lớn khí đốt đến châu Âu. Tuy nhiên, giá dầu và khí đốt vẫn đủ cao để giảm bớt tác động đối với nền kinh tế xuất khẩu năng lượng của Nga.

Adam Posen, chủ tịch Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, cho biết chiến tranh "là một thảm họa của con người. Nhưng tác động của nó đối với nền kinh tế thế giới là một cú sốc thoáng qua".

Tuy nhiên, dù lớn hay nhỏ, chiến tranh vẫn gây ra đau thương. Ví dụ, ở châu Âu, giá khí đốt tự nhiên vẫn cao gấp ba lần so với trước khi Nga bắt đầu tập trung quân đội ở biên giới Ukraine.

Sven Paar, người điều hành một tiệm giặt ủi thương mại ở Walduern, Tây Nam nước Đức, đang phải đối mặt với hóa đơn tiền gas năm 2022 khoảng 165.000 euro (176.000 USD) – tăng từ 30.000 euro (32.000 USD) vào năm trước đó – để vận hành 12 chiếc máy giặt khổng lồ và máy ủi sưởi bằng gas hạng nặng có thể giặt hàng tấn đồ giặt mỗi ngày. Paar nói: "Chúng tôi đã thông báo giá từng người một cho khách hàng của mình".

Cho đến nay, anh ấy đã có thể giữ chân khách hàng của mình sau khi cho họ xem các hóa đơn năng lượng đi kèm với việc tăng giá. Cùng lúc đó, khách hàng phàn nàn, nhưng họ buộc phải chuyển chi phí cho chính khách hàng của mình vì không còn cách nào khác.

Trong khi anh ấy giữ được những khách hàng ổn định của mình, họ cũng có ít hoạt động kinh doanh hơn trước. Các nhà hàng có ít khách hàng hơn nên cần giặt ít khăn trải bàn hơn. Một số khách sạn đã đóng cửa vào thay vì trả chi phí sưởi ấm quá cao mà nhu cầu của khách quá hạn hẹp, đồng nghĩa với việc phải dọn dẹp ít ra trải giường hơn.

Giá lương thực quá cao đang gây khó khăn đặc biệt cho người nghèo. Chiến tranh đã làm gián đoạn lúa mì, lúa mạch và dầu ăn từ Ukraine và Nga- những nhà cung cấp chính toàn cầu cho Châu Phi, Trung Đông và một phần Châu Á- nơi nhiều người phải vật lộn với tình trạng mất an ninh lương thực. Nga cũng là nhà cung cấp phân bón hàng đầu.

Mặc dù một thỏa thuận do Liên Hợp Quốc làm trung gian đã cho phép một số chuyến hàng thực phẩm từ khu vực Biển Đen, nhưng nó sẽ được gia hạn vào tháng tới.

Tại Nigeria, nước nhập khẩu lúa mì hàng đầu của Nga, giá lương thực trung bình tăng vọt 37% trong năm ngoái. Giá bánh mì đã tăng gấp đôi ở một số nơi trong bối cảnh thiếu lúa mì.

Alexander Verhes, người điều hành Life Flour Mill Limited ở bang miền nam Delta cho biết: "Mọi người phải đưa ra những quyết định quan trọng. "Họ mua thức ăn gì? Họ có chi tiền cho thức ăn không? Đi học? Thuốc men?".

Ít nhất 40% tiệm bánh ở thủ đô Abuja của Nigeria phải đóng cửa sau khi giá bột mì tăng vọt khoảng 200%. Mansur Umar, chủ tịch hiệp hội thợ làm bánh cho biết: "Những người vẫn còn kinh doanh đang làm như vậy mà không có lợi nhuận. Rất nhiều người đã ngừng ăn bánh mì. Họ đã tìm kiếm các giải pháp thay thế vì chịu gánh chi phí".

Bao phân bón tại cảng. Giá khí đốt và phân bón tăng cao đã góp phần đẩy giá hàng hóa toàn cầu lên cao. Ảnh: @ Brendan Hoffman/ Thời báo New York.

Bao phân bón tại cảng. Giá khí đốt và phân bón tăng cao đã góp phần đẩy giá hàng hóa toàn cầu lên cao. Ảnh: @ Brendan Hoffman/ Thời báo New York.

Tại Tây Ban Nha, chính phủ đang chi 300 triệu euro (320 triệu USD) để giúp nông dân mua phân bón, khi giá cả đã tăng gấp đôi kể từ cuộc chiến ở Ukraine. Jose Sanchez, một nông dân ở làng Anchuelo, phía đông Madrid, cho biết: "Phân bón rất quan trọng vì đất đai cần dinh dưỡng nhất định. Đất không có dinh dưỡng thì mùa màng không tốt lên được".

Tất cả những viễn cảnh trên cho thấy có nghĩa là một nền kinh tế toàn cầu đang chậm lại. Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã giảm kỳ vọng tăng trưởng trong năm 2023 so với năm 2022, tương đương với khoảng 1 nghìn tỷ đô la sản xuất bị mất. Nathan Sheets, nhà kinh tế trưởng toàn cầu của ngân hàng khổng lồ Citi cho biết, nền kinh tế châu Âu "vẫn đang trải qua những cơn gió ngược đáng kể", mặc dù giá năng lượng giảm, nhưng họ có nguy cơ rơi vào suy thoái.

IMF cho biết giá tiêu dùng đã tăng 7,3% ở các quốc gia giàu có nhất vào năm ngoái — cao hơn mức dự báo 3,9% vào tháng 1 năm 2022, và 9,9% ở các quốc gia nghèo hơn, tăng từ mức 5,9% dự kiến trước cuộc xâm lược. Ở Mỹ, lạm phát như vậy đã buộc các doanh nghiệp phải linh động ở mọi phương diện.

Stacy Elmore, đồng sáng lập The Luxury Pergola ở Noblesville, Indiana, cho biết chi phí cung cấp bảo hiểm y tế cho tổng công nhân của họ đã tăng 39% trong năm qua - lên 10.000 USD/tháng. Trong bối cảnh thiếu lao động, cô ấy cũng phải tăng lương theo giờ cho người lắp đặt hàng đầu của mình từ 24 đô la lên 30 đô la một giờ.

Những người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi lạm phát bắt đầu ngần ngại trả 22.500 đô la cho một giàn che nắng có mái che rộng 10 x 16 foot được bán thông qua các đại lý. Doanh số giảm vào năm ngoái. Vì vậy, Elmore chuyển hướng sang mô hình tự làm, bán trực tiếp cho người mua sắm với mức giá giảm mạnh là 12.580 đô la.

Elmore cho biết: "Với tình trạng lạm phát quá cao, chúng tôi đã nỗ lực mở rộng sức hấp dẫn của các sản phẩm của mình và giúp những người bình thường dễ dàng mua được chúng hơn".

Tại thủ đô Jakarta của Indonesia, nhiều người bán hàng rong biết rằng họ không thể chuyển giá thực phẩm tăng cao cho những khách hàng đang gặp khó khăn của họ. Vì vậy, thay vào đó, một số người đang tiết kiệm khẩu phần ăn, một phương pháp được gọi là "lạm phát co lại".

Mukroni, 52 tuổi, người điều hành một quầy hàng thực phẩm, cho biết: "Một kg gạo chia riêng ra 8 phần để làm bánh... nhưng giờ chúng tôi đã chia nó thành 10 phần. Ông nói, khách hàng "sẽ không đến cửa hàng" nếu giá quá cao.

"Chúng tôi hy vọng hòa bình", anh ấy nói, "bởi vì xét cho cùng, dù có ai ai thắng hay thua, thì tất cả mọi người đều sẽ là nạn nhân".

Một vụ nổ phá hủy mặt bên của một tòa nhà chung cư sau khi xe tăng của quân đội Nga nổ súng ở Mariupol, Ukraine, vào ngày 11 tháng 3 năm 2022. Ảnh: @Evgeniy Maloletka/AP.

Một vụ nổ phá hủy mặt bên của một tòa nhà chung cư sau khi xe tăng của quân đội Nga nổ súng ở Mariupol, Ukraine, vào ngày 11 tháng 3 năm 2022. Ảnh: @Evgeniy Maloletka/AP.

Một lục địa được tôi luyện trong khủng hoảng: Đánh giá châu Âu sau một năm chiến sự Nga-Ukraine

Một năm sau khi Nga xâm lược Ukraine, các nhà sử học có thể sẽ coi năm 2022 là một năm bản lề giống như năm 1989 và 2001—những năm đánh dấu sự kết thúc của một kỷ nguyên và bắt đầu một giai đoạn lịch sử mới. Phản ứng của châu Âu đối với chiến sự Nga-Ukraine đã thay đổi nhất định lục địa.

Những thay đổi trong năm qua đã thực sự ấn tượng. Các quốc gia có lịch sử trung lập lâu đời bất ngờ tìm cách gia nhập liên minh quân sự Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Gần như chỉ sau một đêm, Vương quốc Anh, dường như vướng vào ảnh hưởng và đầu tư của Nga không thể khắc phục được, đã trục xuất các nhà tài phiệt Nga và sự giàu có của họ.

Đức công bố một kỷ nguyên mới, đầu tư ồ ạt vào quốc phòng, gửi vũ khí tới Ukraine và chấm dứt sự phụ thuộc sâu sắc vào khí đốt tự nhiên của Nga. Liên minh châu Âu cho thấy mình là một tác nhân địa chính trị, thực hiện các biện pháp trừng phạt kinh tế lớn và lần đầu tiên cung cấp hàng tỷ euro hỗ trợ an ninh khu vực.

Cuộc chiến tấn công Ukraine của Nga tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế EU, đặt nền kinh tế này vào con đường tăng trưởng thấp hơn và lạm phát cao hơn so với dự báo. Ảnh: @AFP.

Cuộc chiến tấn công Ukraine của Nga tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế EU, đặt nền kinh tế này vào con đường tăng trưởng thấp hơn và lạm phát cao hơn so với dự báo. Ảnh: @AFP.

Quan trọng nhất, sự thống nhất được hình thành ở châu Âu để đối phó với cuộc chiến đang diễn ra. Giả định phổ biến rằng châu Âu yếu đã dẫn đến những dự đoán liên tục rằng sự thống nhất này sẽ rạn nứt. Có những lo ngại rằng, hàng triệu người Ukraine di cư có thể gây ra phản ứng dữ dội của chủ nghĩa dân túy, và việc giá năng lượng tăng cao cũng như cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt sẽ khiến châu Âu thúc đẩy chấm dứt xung đột, cắt đứt quan hệ với Ukraine và Hoa Kỳ. Hơn nữa, có những lo ngại rằng châu Âu sẽ không thể vượt qua mùa đông nếu không có khí đốt của Nga và nền kinh tế của họ có thể sụp đổ.

Nhưng hết lần này đến lần khác, châu Âu đã đứng vững và thích nghi. Phản ứng của họ thường lộn xộn và ồn ào trong nội bộ, nhưng điều này vốn được dự kiến ở các nền dân chủ châu Âu, nơi các cuộc tranh luận và chia rẽ về chính sách đối ngoại diễn ra công khai. Cuối cùng, phản ứng của châu Âu đã thể hiện cả quyết tâm lẫn sức mạnh và khả năng phục hồi của nền dân chủ. Các nền dân chủ châu Âu đã thể hiện năng lực và quyết tâm của mình—từ việc nhanh chóng cung cấp vũ khí cho Ukraine đến nhanh chóng xây dựng các kho cảng khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG). Do đó, cuộc chiến đã củng cố châu Âu, Liên minh châu Âu và liên minh NATO. Về kinh tế, châu Âu đã hoạt động tốt hơn dự kiến và tránh rơi vào suy thoái vào năm 2022.

Tuy nhiên, bất chấp phản ứng mạnh mẽ đối với chiến tranh, những thay đổi cấu trúc toàn diện đối với nền kinh tế và cấu trúc an ninh của châu Âu vẫn chưa thành hiện thực. Mặc dù hiện đang chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng, nhưng cuộc chiến đã cho thấy tình trạng của các lực lượng châu Âu thậm chí còn tồi tệ hơn so với thực tế. Việc mua sắm thiết bị quân sự có sẵn, chủ yếu từ Hoa Kỳ, được ưu tiên hơn so với các nỗ lực phối hợp đầy tham vọng và đầu tư vào các sáng kiến quốc phòng chung của châu Âu. Bất chấp chiến tranh, không ai trong số ba bên liên quan chính của phương Tây—NATO, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu—đã đề xuất bất kỳ sáng kiến chuyển đổi nào để cải thiện hợp tác quốc phòng chung.

Động lực hướng tới hội nhập tài chính lớn hơn cũng đã bị đình trệ. Châu Âu ngày càng có nhiều nhu cầu đầu tư nguồn lực để giải quyết các vấn đề chung. Nhưng Liên minh châu Âu thiếu khả năng tài chính để giải quyết các vấn đề lớn - từ mua sắm quốc phòng đến cung cấp vũ khí cho Ukraine và từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng mới và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh sang đảm bảo chuỗi cung ứng.

Ngoài ra, một khi chiến tranh kết thúc, việc xây dựng lại Ukraine sẽ tiêu tốn hàng trăm tỷ euro trong ít nhất một thập kỷ. Ủy ban Châu Âu đã tuyên bố rằng ngân sách hiện tại của EU, được gọi là "khuôn khổ tài chính nhiều năm", không đáp ứng được những nhu cầu này và các nguồn tài chính mới sẽ phải được xác định.

Tuy nhiên, bất chấp tiền lệ được tạo ra bởi Cơ sở phục hồi và khả năng phục hồi của EU—mà Liên minh châu Âu hướng tới đã vay khoảng 800 tỷ euro để giúp các quốc gia thành viên phục hồi sau đại dịch Covid-19—các nhà lãnh đạo châu Âu cho đến nay vẫn từ chối phát sinh thêm nợ chung. Do đó, không rõ châu Âu sẽ tài trợ như thế nào để giải quyết các thách thức tập thể cũng như tái thiết Ukraine. Năm 2023 chắc chắn sẽ đặt ra những thách thức kinh tế đáng kể, vì nền kinh tế châu Âu dự kiến sẽ chậm lại và lục địa này sẽ tiếp tục phải đối phó với việc không có nguồn cung cấp khí đốt của Nga.

Trái ngược với phản ứng hạn chế của Liên minh Châu Âu đối với việc Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014, khối này đã mang toàn bộ sức nặng kinh tế của mình lên Điện Kremlin vào năm 2022. Phản ứng kinh tế của EU đã vượt xa mong đợi của Washington. Mặc dù chính quyền Biden cho rằng họ sẽ phải thúc đẩy Liên minh châu Âu áp dụng các biện pháp trừng phạt mạnh mẽ hơn, nhưng họ thường thấy mình phản ứng trước các đề xuất mạnh mẽ đáng ngạc nhiên của châu Âu. Ví dụ, chính Liên minh châu Âu đã đề xuất các biện pháp trừng phạt đối với Ngân hàng Trung ương Nga. Các biện pháp trừng phạt của EU đối với ngành dầu khí của Nga đã khiến Washington lo ngại rằng, chúng sẽ gây ra một cú sốc cho thị trường năng lượng toàn cầu, dẫn đến các đề xuất thỏa hiệp như áp trần giá dầu được thực hiện vào tháng 12/2022.

Liên minh châu Âu cũng liên tục cập nhật và củng cố chế độ trừng phạt của mình. Chín gói trừng phạt do EU áp đặt đã nhắm vào một vùng rộng lớn nền kinh tế, quân sự và cơ sở công nghiệp của Nga. Các biện pháp này nhằm trừng phạt Nga vì hành vi xâm lược ngoài lãnh thổ của nước này và làm giảm hiệu quả khả năng tiếp tục chiếm đóng Ukraine của nước này. Các biện pháp trừng phạt ban đầu nhắm vào các cá nhân có quan hệ với Điện Kremlin và hạn chế khả năng tiếp cận của Nga với thị trường tài chính châu Âu, trong khi các biện pháp gần đây hơn bao gồm áp trần giá đối với dầu mỏ của Nga và cấm xuất khẩu hàng hóa và công nghệ lưỡng dụng.

Hơn nữa, Vương quốc Anh một mình đã đóng băng hơn 18 tỷ bảng tài sản có liên quan đến Nga, nhiều hơn gần 6 tỷ bảng so với tổng tài sản được nắm giữ dưới tất cả các chế độ trừng phạt khác của Anh.

Chín gói trừng phạt của Liên minh châu Âu bổ sung cho các biện pháp trừng phạt chưa từng có đối với Nga bởi một liên minh đa phương bao gồm Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh, Canada, Úc và Nhật Bản. Kể từ tháng 2/2022, Nga trở thành quốc gia bị trừng phạt nhiều nhất trên thế giới.

Mặc dù những điều này thực sự đã tạo ra những thách thức cho Điện Kremlin, nhưng chúng vẫn chưa góp phần vào sự sụp đổ hoàn toàn của nền kinh tế Nga. Tuy nhiên, các chuyên gia tin rằng sẽ mất ít nhất một thập kỷ để Nga có thể trở lại mức hoạt động kinh tế và chất lượng cuộc sống có như trước chiến tranh. Khả năng tiếp cận hạn chế với công nghệ phương Tây cũng sẽ làm giảm khả năng của Điện Kremlin trong việc sản xuất và duy trì các thiết bị quân sự và quốc phòng chất lượng cao về lâu dài.

Thị trường EU có quy mô tương đương với Hoa Kỳ và Trung Quốc. Do đó, khi Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ cùng hợp tác về các biện pháp trừng phạt, cho dù liên quan đến Nga hay Iran, chúng đều có tác động vô cùng lớn.

Một lục địa được tôi luyện trong khủng hoảng: Đánh giá châu Âu sau một năm chiến sự Nga-Ukraine. Ảnh: @AFP.

Một lục địa được tôi luyện trong khủng hoảng: Đánh giá châu Âu sau một năm chiến sự Nga-Ukraine. Ảnh: @AFP.

Châu Âu, giống như hầu hết các nơi trên thế giới, đang trải qua một cuộc suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, bất chấp mọi lời tiên tri, nền kinh tế EU đang hoạt động tốt hơn nhiều so với dự kiến và dự kiến sẽ tiếp tục như vậy trong suốt năm 2023. Vào giữa năm 2022, nhiều nhà phân tích đã dự báo về sự sụp đổ kinh tế châu Âu do tình trạng thiếu năng lượng, giá cả tăng cao và sự bất ổn gia tăng. Tuy nhiên, theo ước tính của Ủy ban châu Âu, tăng trưởng kinh tế năm 2022 đã vượt 3%. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp lịch sử là 6,6% , sản xuất công nghiệp đã giảm ít hơn nhiều so với dự kiến.

Tuy nhiên, châu Âu phải đối mặt với một năm 2023 đầy thách thức. Về cơ bản, không được kết nối với năng lượng của Nga, một số nước châu Âu có thể rơi vào suy thoái kỹ thuật và lạm phát rất có thể sẽ tiếp tục gia tăng. Không giống như các cuộc khủng hoảng trước đây (thảm họa kinh tế do Covid-19 gây ra vào năm 2020 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007–2012), sự suy thoái kinh tế này, nếu diễn ra, có thể sẽ nhẹ và ngắn.

Huỳnh Dũng-Theo CNBC/AP/CSIS/Thedailystar/Fortune/CNN

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem