Nguồn thu ngân sách biến động nhẹ, xuất khẩu đóng góp lớn bên cạnh dầu thô
Nguồn thu ngân sách biến động nhẹ, xuất khẩu đóng góp lớn bên cạnh dầu thô
PVKT
Thứ tư, ngày 20/05/2020 10:44 AM (GMT+7)
Ngân sách Nhà nước năm 2019 có sự biến động nhẹ trong cơ cấu nguồn thu, trong đó, vai trò của từ dầu thô vẫn chủ yếu, nhưng đã có thêm sự đóng góp không nhỏ từ hoạt động xuất nhập khẩu.
Báo cáo của Chính phủ về "Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2019 và tình hình triển khai thực hiện ngân sách nhà nước năm 2020" cho biết, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2019 vượt khá cao so với dự toán (9,9%), tăng 93,77 nghìn tỷ đồng so với số đã báo cáo Quốc hội (46 nghìn tỷ) vào tháng 10 năm 2019.
Trong đó 3 khoản thu chủ yếu của NSNN là thu nội địa, thu từ dầu thô và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đều vượt dự toán rất cao. Thu nội địa vượt 8,6%, thu từ dầu thô vượt 26,1% và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu vượt 13,2% so với dự toán NSNN năm 2019.
Còn một số hạn chế trong thu NSNN
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu trong báo cáo của Chính phủ, Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách (TCNS) cho rằng còn một số hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ thu NSNN năm 2019.
Theo Ủy ban TCNS, công tác dự báo kết quả thu NSNN năm 2019 phục vụ việc lập dự toán NSNN năm 2020 còn chưa sát, có sự chênh lệch khá lớn giữa số báo cáo Quốc hội và số đánh giá bổ sung. Chỉ trong quý 4, số thu NSNN năm 2019 đã vượt 93,77 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội, bằng 67% số tăng thu NSNN năm 2019.
Tỷ lệ thu NSNN vượt dự toán có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây. Đơn cử như thu NSNN: năm 2017 vượt 6,3% dự toán, năm 2018 vượt 8% dự toán và năm 2019 vượt 9,9% dự toán, cho thấy việc lập dự toán thu chưa thật tích cực.
Đồng thời việc hoàn thuế giá trị gia tăng vượt dự toán tương đối cao, vượt 9 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc hội và 19,6% so với dự toán.
Trước thực trạng này, Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ chú trọng hơn nữa đối với việc nâng cao năng lực phân tích, dự báo các nguồn thu để tạo cơ sở vững chắc trong việc xây dựng dự toán thu NSNN năm 2021 và những năm tiếp theo.
Cơ cấu thu NSNN năm 2019 chưa thật bền vững
Bên cạnh đó, cơ cấu thu NSNN năm 2019 chưa thật bền vững, tăng thu hằng năm từ kết quả sản xuất, kinh doanh chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài thiếu ổn định và không thường xuyên (như thu từ dầu thô, thu từ xuất nhập khẩu, các khoản thu từ nhà, đất ,…).
Thu từ DNNN giảm 2,24 nghìn tỷ đồng và thu thuế TNCN giảm 2,08 nghìn tỷ đồng so với báo cáo Quốc hội. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 22,3% và thu về nhà, đất chiếm 12,4% tổng thu NSNN năm 2019. Thu từ dầu thô chiếm 3,6% tổng thu NSNN năm 2019 nhưng số tăng thu từ dầu thô chiếm 8,3% tổng số tăng thu NSNN.
Tỷ trọng thu nội địa, thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh dù có xu hướng tăng dần nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng thu NSNN. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN năm 2018 là 80,6%, năm 2019 là 82,1%, vẫn thấp hơn mục tiêu tỷ trọng thu nội địa bình quân trong tổng thu NSNN (84-85%) theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020.
Tỷ lệ thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong tổng thu NSNN năm 2018 là 14,7%, năm 2019 là 15,3%.
Nợ đọng thuế tăng cao hơn so với năm trước. Theo Báo cáo của Chính phủ, tổng số nợ thuế nội địa tính đến 31/12/2019 là 80,83 nghìn tỷ đồng, tăng 4,5 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2018, trong đó nợ có khả năng thu là 40,6 nghìn tỷ đồng. Cơ quan thuế đã đôn đốc thu hồi được 35,2 nghìn tỷ đồng.
Ngoài ra, thể chế, chính sách thu còn chưa được hoàn thiện kịp thời. Ủy ban TCNS đánh giá, việc quy định giới hạn lãi vay không quá 20% trên tổng lợi nhuận trước thuế chưa trừ khấu hao và lãi vay (EBITDA) đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết theo Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ là chưa hợp lý và còn chậm được xử lý, tháo gỡ, gây khó khăn cho một số doanh nghiệp có giao dịch liên kết.
Khoản 3 Điều 8 của Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết quy định: "Tổng chi phí lãi vay phát sinh trong thời kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao trong thời kỳ của người nộp thuế".
Chính sách thuế ưu đãi đối với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chậm ban hành. Việc rà soát để điều chỉnh lại mức thu phí và tập trung thu vào NSNN từ nhiều lĩnh vực theo Luật NSNN, Luật Phí và lệ phí còn chậm.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.