Những danh mã nước Việt: Từ thiết mã của Thánh Gióng đến ngựa què của Bác Hồ

MA Thứ sáu, ngày 12/06/2020 19:31 PM (GMT+7)
Ngựa đã trở thành loài vật thân thuộc với con người từ lâu. Lịch sử phát triển của nhân loại còn lưu lại nhiều câu chuyện về các giống ngựa nổi tiếng cũng như tên tuổi của nhiều “thần mã” từ Âu sang Á. Mặc dù không phải là xứ sở của ngựa nhưng Việt Nam cũng đã từng có nhiều danh mã...
Bình luận 0

Thiết mã của Thánh Gióng

Những danh mã nước Việt: Từ thiết mã của Thánh Gióng đến ngựa què của Bác Hồ - Ảnh 1.

Tượng Thánh Gióng tại Sóc Sơn, Hà Nội.

Người Việt luôn tự hào với lịch sử chống ngoại xâm hào hùng, mở đầu bằng huyền tích:

Ôi sức trẻ xưa trai Phù Đổng

Vươn vai lớn bổng dậy nghìn cân

Cưỡi lưng ngựa sắt bay phun lửa

Nhổ bụi tre làng đuổi giặc Ân.

Trong cuộc khánh chiến đầu tiên ấy của dân tộc, cậu bé-tráng sĩ làng Gióng đã cưỡi một chiến mã đặc biệt ra trận đánh đuổi quân giặc. Đặc biệt vì chiến mã ấy không phải một chú ngựa bằng xương bằng thịt mà được rèn bằng sắt và có khả năng phun lửa thiêu đốt quân giặc. Sức mạnh của thiết mã còn được dân gian truyền lại rằng: Những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Lửa do ngựa thét ra còn thiêu cháy một làng, sau gọi là làng Cháy. Và sau khi phá tan giặc, thiết mã đã cùng chủ nhân lên đỉnh núi Sóc Sơn bay về trời, trở thành một trong "tứ bất tử" của dân tộc Việt.

Đại Việt sử ký toàn thư phần Ngoại kỷ toàn thư, kỷ "Hồng Bàng thị", ghi lại câu chuyện này như sau: Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng nghèo có tiếng là phúc đức nhưng mãi vẫn chưa có con. Một hôm bà ra đồng thấy 1 vết chân rất to liền ướm thử xem thua kém bao nhiêu, không ngờ về nhà bà thụ thai và 12 tháng sau sinh được cậu bé khôi ngô tuấn tú. Kì lạ thay, cậu bé ấy lên ba mà vẫn không biết nói cười, đặt đâu nằm đấy. Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua sai sứ giả đi tìm người có thể đánh lui được giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời sứ vào, nói: "Xin cho một thanh gươm, một áp giáp sắt và một con ngựa, vua không phải lo gì". Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Trâu. Bọn giặc giẫm đạp lên nhau mà chay. Giặc tan, tráng sĩ cởi áo giáp, phi ngựa lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vườn nhà để lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vương.

Ngựa chín hồng mao

Danh mã thứ hai xuất hiện trong lịch sử tộc Việt là "ngựa chín hồng mao" trong huyền tích Sơn Tinh-Thủy Tinh. Truyện lấy bối cảnh thời Hùng Vương thứ 18, kể lại cuộc kén rể đặc biệt của vua Hùng cho nàng Mỵ Nương con vua. Hai "ứng viên" Sơn Tinh và Thủy Tinh đều có tài năng phi thường. Vua Hùng rất khó xử nên đã ra quyết định ai dâng sính lễ sớm nhất thì sẽ được gả công chúa.

Sính lễ bao gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm đệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. Kết quả Sơn Tinh trở thành rể quý của vua Hùng và khiến cho tình địch Thủy Tinh "năm năm báo oán, đời đời đánh ghen" bằng những trận lụt lớn hòng giành lại nàng công chúa xinh đẹp.

Về mức độ thực hư của giống ngựa chín hồng mao, chắc chắn sẽ còn nhiều tranh cãi. Thực tế, đã không ít người lao tâm khổ tứ, bỏ công bỏ sức truy tìm gốc tích của loài ngựa chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong trong huyền tích. Nhưng phần nhiều ý kiến cho rằng ngựa chín hồng mao là con ngựa có đúng chín cái lông màu đỏ trong cả bộ lông cho dù bộ lông màu gì (trừ màu đỏ). Ở đây, con số 9 được diễn giải là hình tượng của Cửu trù Hồng phạm, một quan niệm triết học đại quy mô về vũ trụ và vạn vật trong thế giới cổ đại mà con người thời ấy mơ ước.

Thần Bạch Mã – Thành hoàng kinh thành Thăng Long

Ở Phố Hàng Buồm, Hà Nội, ngày nay vẫn còn một đền thờ được xem là "Đông Trấn từ" (Đền trấn giữ phía Đông kinh thành) của Thăng Long xưa. Đó là Đền Bạch Mã, được lập ra vào khoảng cuối thế kỷ thứ IX. Sách Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên nhắc đến ngôi đền này như sau:

Vào đời Đường Hàm Thông, quan đô hộ ở nước ta là Cao Biền một hôm ra chơi ngoài cửa Đông thành Đại La, chợt thấy trong mây có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Vốn giỏi phong thủy, Cao Biền kinh sợ, lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong thần là Long Đỗ đại vương.

Đến đời Lý Thái Tổ (trị vì 1010-1028), dời kinh đô đến Đại La, đổi gọi là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân tại đó, và cuối cùng biến mất trong đền. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi tối linh thượng đẳng thần.

Các hoàng đế nước ta đa số đều cưỡi Bạch mã, một loại ngựa quý hiếm có sắc lông trắng như tuyết, cao lớn ôn hòa, có nghĩa mến chủ, biết bảo vệ chủ, không sợ tiếng gào thét, tiếng voi rống, ngựa hí, tiếng va chạm binh khí, tiếng súng. Ngựa phải chạy nhanh, đạt các tiêu chuẩn 4 nước đại, 3 đợt nhảy cao và có 9 đức tính tốt.

Sách Đại Việt sử ký tiền biên trang 180 chép: "Năm Đinh Mùi (1006), châu Vị Long (Chiêm Hóa, Tuyên Quang) dâng cho Khai Minh vương một con Bạch mã bốn vó đều có cựa.

Chiến mã Song Vĩ Hồng của Thái úy Lý Thường Kiệt

Song Vỹ Hồng là chiến mã Hồng Lão có bộ lông đỏ, đuôi dài chia ra hai màu: Hồng một bên và trắng một bên. Khi nó cất vó phi, trông như con thần mã có hai đuôi, nên được gọi là Song Vỹ Hồng, nghĩa là "ngựa hồng hai đuôi". Nó là con ngựa chiến của Thái úy Lý Thường Kiệt (1019–1105), vị danh tướng Việt đã từng bình Chiêm, đánh Tống và để lại bài thơ Thần nổi tiếng, được xem như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tai thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Ngựa thời Trần

Những danh mã nước Việt: Từ thiết mã của Thánh Gióng đến ngựa què của Bác Hồ - Ảnh 2.

Tượng ngựa đá tại một lăng mộ cổ ở Bắc Giang - Ảnh: VGP/Xuân Hồng.

Việt sử còn đề cập đến chuyện ngựa đá thời Trần (1225-1400). Sau đại thắng trên sông Bạch Đằng kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông (1288), trong lúc làm lễ ở Chiêu Lăng, vua Trần Nhân Tông (1258-1308) trông thấy những con ngựa đá ở trước lăng con nào con nấy chân cũng dính bùn. Nhà vua nghĩ rằng, trong khi chinh chiến chống xâm lăng, anh linh các bậc tiên đế cũng cưỡi ngựa đi giúp. Vua liền cảm khái đọc hai câu thơ bằng chữ Hán:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện kim âu

(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng).

Ngoài ra, sách sử còn ghi lại một con ngựa đặc biệt của hoàng đế Trần Duệ Tông (1337-1377), đó là ngựa Nê Thông, một con tuấn mã cực kỳ hiếm hoi mà nhà vua đã cưỡi khi thân chinh tiễu phạt Chiêm Thành.

Đại Việt sử ký toàn thư quyển VII chép:

Tháng 12, năm Bính Thìn (1376) vua thân đi đánh Chiêm Thành, dẫn 12 vạn quân xuất phát từ kinh sư... Trước đây, chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hoá Châu. Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng vua. Tử Bình ỉm đi, nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ. Vua giận lắm, quyết ý thân chinh.

Năm Đinh Tỵ (1377) mùa xuân tháng giêng, ngày 23 đại quân tiến cửa Thị Nại (cảng Quy Nhơn, Bình Định) rồi đóng quân ở động Ỷ Mang.

Ngày 24, vua mặc áo đen, cưỡi ngựa Nê Thông, sai Ngự Câu vương Húc mặc áo trắng, cưỡi ngựa trắng, kịp truyền lệnh tiến quân.

Chế Bồng Nga lập đồn giữ ngoài thành, rồi cho người trá hàng. Duệ Tông muốn tiến quân ngay, đại tướng Đỗ Lễ can ngăn mãi nhưng ông không nghe.

Vua thúc quân tiến vào thành. Quân Chiêm 4 phía phục binh đổ ra đánh, quân Đại Việt thua to. Duệ Tông bị hãm trong trận, cùng nhiều tướng đều tử trận.

Theo các chữ đặc thù dùng để chỉ màu sắc, hình dáng hay đặt tính của loài ngựa thời xưa thì Nê chỉ lông con ngựa có hai màu: Màu trắng và màu đen. Thông để tả sắc lông ngựa màu xanh... Như vậy con ngựa của Hoàng đế Duệ Tông là một tuấn mã cực kỳ hiếm, với bộ lông xanh đen ửng sắc kim ánh xám.

Tây Sơn ngũ thần mã

Những danh mã nước Việt: Từ thiết mã của Thánh Gióng đến ngựa què của Bác Hồ - Ảnh 3.

Hình tượng ngựa trên điêu khắc gỗ, Đình Bảng, Bắc Ninh - Ảnh: VGP/Xuân Hồng

Tây Sơn ngũ thần mã là năm con chiến mã có tài năng, có lòng trung nghĩa với chủ ở thời Tây Sơn mà mãi sau khi nhà Tây Sơn mất, người Bình Định vẫn tưởng nhớ và coi như linh thú. Năm con thần mã ấy đều có tên ghi vào cuốn Tây Sơn nhân vật chí của Đinh Sĩ An, một nhân vật nổi danh về văn học, người Bình Khê (Bình Định) đã từng được bổ làm việc ở Nội các vua Quang Trung. Năm con thần mã là: Bạch Long, Xích Kỳ, Ô Du, Ngân Câu, Hồng Lư.

a. Bạch Long Câu: Đây là tuấn mã thuộc loại "Ngựa Hạc" của Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc. Bạch Long Câu là một con tuấn mã chân cao, long thon, dáng đẹp và dõng mãnh. Lông trắng như tuyết, bờm và đuôi lông dài mượt như tơ, chạy nhanh như gió, nhẹ nhàng như bay. Lúc ngựa phi xa trông như một làn mây trắng vút qua. Nó nguyên là con ngựa chúa trong bầy ngựa rừng trên núi Hiển Hách, miền An Khê, được ông Nguyễn Nhạc dụ về và thuần dưỡng, tập luyện thành một chiến mã rất tinh khôn, nhanh nhẹn và giỏi chiến trận. Bạch Long đã gắn bó với Vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc như hình với bóng suốt cả cuộc trường chinh, khi vào Nam, lúc ra Bắc, diệt chúa Trịnh, thắng chúa Nguyễn, đuổi quân Xiêm.

Năm 1793, Nguyễn Nhạc mất. Bạch Long Câu ban đêm vượt tàu ngựa chạy thẳng một mạch về núi Hảnh Hót. Từ đó rừng núi Hảnh Hót đêm đêm vang tiếng ngựa thần hí lên nhớ người chúa cũ. Về sau người trong vùng không còn ai dám nuôi ngựa trắng nữa và vinh danh con chiến mã Bạch Long là Thần Mã.

b. Xích Kỳ của Tả Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, thuộc loại "Ngựa Tía", lông màu đỏ tía, bờm kỳ và lông đuôi dài đen huyền. Ngựa vốn dòng Bắc Thảo, sức mạnh ngày đi vạn dặm không đổ mồ hôi, không chồn vó, chạy nhanh như gió. Xích Kỳ là cống vật nước Cao Miên (Campuchia) tặng chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Chúa đi tuần du đến Quy Nhơn bị Nguyễn Văn Tuyết vào chuồng cướp Xích Kỳ đi. Một mình một ngựa, Tuyết đang đêm phi thẳng lên Kiên Mỹ theo phò Nguyễn Nhạc lập được nhiều công lớn.

Năm 1788, Xích Kỳ vượt ngàn dặm từ Thăng Long đưa Nguyễn Văn Tuyết về Phú Xuân cấp báo tình hình quân Thanh vào Bắc Thành để quân Tây Sơn kịp tạm lui binh.

Ngày 25 tháng 11, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, Ðô đốc Tuyết được phong chức Ðại Ðô đốc giao nhiệm vụ kinh lược Hải Dương, tiếp ứng mặt Ðông. Ngày 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), Ðại Ðô đốc Tuyết đã đồng loạt với các cánh quân khác tiến công đạo quân Mãn Thanh đóng ở Hải Dương. Diệt xong giặc ngoại xâm, Ðại Ðô đốc Tuyết cùng con Xích Kỳ trở về Phú Xuân thì nghe tin Vua Quang Trung băng hà. Ông cùng Bà Bùi Thị Xuân phò Vua Cảnh Thịnh lo trấn giữ kinh thành. Sau hai vợ chồng được cử ra giữ Bắc thành. Năm 1802, Ðại Ðô đốc Tuyết cùng phu nhân hộ giá vua cùng cung quyến qua sông Nhị Hà lên phương Bắc đến Xương An thì bị vây. Con Xích Kỳ cùng Ðại Ðô đốc xông pha chiến trận phá vòng vây, chẳng may cả hai đều trúng đạn tử trận.

c. Ô Du: là ngựa của Đại tướng Đặng Xuân Phong, người làng Dũng Hòa, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ô Du có sắc lông đen nhánh như mun, thuộc loại "Ngựa Ô Quạ" nên được gọi là Ô-Du (Con Quạ rong chơi). Bốn chân ngựa thon nhỏ như chân nai, lúc đi thì khoan thai uyển chuyển như cọp, lúc chạy thì thoăn thoắt như bay, có tài leo núi hay vượt qua các ghềnh núi đá chập chùng.

Nữ tướng Bùi Thị Xuân tiến cử Đặng Xuân Phong lên Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc. Ông Ðặng được cử đi Quảng Nam đánh trận lập công. Nhờ con Ô Du nhanh nhẹn mà tướng Ðặng Xuân Phong ra trận đầu liền chiếm được Thăng Bình và Điện Bàn, rồi ruổi quân phi ngựa như gió giết được hai tướng giặc Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân. Năm 1792, Hoàng đế Quang Trung băng hà, tướng Ðặng Xuân Phong cùng với Võ Xuân Ðài phi ngựa mang lễ vật từ Phú Xuân ra phúng điếu. Sau khi Nguyễn Bảo con Hoàng đế Thái Ðức bị giết, Thái phó Ðặng liền từ quan lui về Dũng Hòa dưỡng lão rồi âm thầm bỏ đi nơi khác cùng với con Ô Du.

Những danh mã nước Việt: Từ thiết mã của Thánh Gióng đến ngựa què của Bác Hồ - Ảnh 4.

Tượng Hoàng đế Quang Trung cưỡi ngựa xung trận.

d. Ngân Câu (Huyết hãn Mã): của Đô đốc Bùi Thị Xuân, lông toàn sắc trắng, vóc to, sức mạnh, thuộc loại "Ngựa Kim", nên được đặt tên là Ngân Câu. Ngựa do một phú ông họ Ðinh ở Lai Nghi tặng Bùi Thị Xuân để đền ơn dạy võ cho con gái ông khi bà lập trường dạy võ ở quê nhà.

Ngựa có sức mạnh và tài đi trong đêm tối. Dù trên đường đi có hầm hố, trở ngại, ngựa vẫn chạy mau như ban ngày trên đường trường. Người đời bảo rằng dưới chân ngựa có mắt sáng để đi trong đêm tối. Nhờ có tài kỳ diệu này mà Ngân Câu đã phi nhanh trong trận phục kích Rạch Gầm khiến tướng Xiêm là Lục Côn không kịp phản ứng, bị Bùi Thị Xuân chém bay đầu.

Khi miền Bắc lâm nguy, Trần Quang Diệu bỏ Quy Nhơn ra Nghệ An để giải cứu. Vì phải đi đường thượng đạo nên Quang Diệu mang trọng bệnh mà bị bắt sống tại Hương Sơn. Bùi Thị Xuân ở Diễn Châu hay tin, giục Ngân Câu vượt đường dài đến Giáp Sơn thì gặp quân đang áp giải Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng. Tả xông hữu đột, bà cứu được chồng, cùng cưỡi chung lên lưng Ngân Câu chạy về Thanh Hóa. Nhưng đến sông Thành Chương thì Ngân Câu bị đạn tử thương, hai vợ chồng bị bắt trở lại và giải về Nghệ An. Tên tuổi và hình ảnh của bà luôn chói được cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì ca tụng trong bài "Bùi Phu nhân ca":

Bạch mã trì khu cổ chiến trường

Tướng quân bách chiến thanh uy dương.

e. Hồng Lư (Huyết hãn bảo câu): của danh tướng Lý Văn Bưu, thuộc loại "Ngựa Hồng-Lão", sắc lông toàn màu nâu-hồng ánh vàng. Thoạt nhìn thì như ngựa bình thường chân cao lỏng khỏng như chân nai, bụng thon ốm như đói cỏ, đầu như đầu lừa, nên được gọi là Hồng Lư. Trừ các con thần mã: Bạch Long, Xích Kỳ, Ô Du, Ngân Câu, một tiếng hí của Hồng Lư đủ khiến các con ngựa chung quanh cụp tai, cúp đuôi hoặc lồng lên cắm đầu bỏ chạy. Nó thuộc loại ngựa bất kham, tính tình hay trở chứng: Muốn đi thì đi, muốn chạy thì chạy, không ai có thể điều khiển được theo ý muốn, trừ chủ nhân. Lý tướng quân cưỡi ngựa không bao giờ dùng yên cương, ông chỉ điều khiển bằng đôi chân.

Hồng Lư tuy dị tướng song chạy nhanh, bền bỉ và khôn ngoan. Khi ra trận không cần chủ điều khiển, ngựa tự biết tiến lui theo ý chủ. Chỉ một nhịp nhẹ của đôi chân Hồng Lư biết phi như tên bắn, bay theo quân địch đang tìm đường trốn chạy. Hồng Lư biết vượt qua chướng ngại vật để chặn đầu ngựa địch, để cho chủ tiêu diệt địch thủ.

Khi nhà Tây Sơn khởi nghĩa, Lý Văn Bưu được phong chức Ðô đốc. Nhờ Hồng Lư mà Lý Văn Bưu đã tổ chức được một đoàn chiến mã và sảo mã (kỵ binh nữ) cho nhà Tây Sơn và cũng nhờ sự có mặt của Hồng Lư trong đoàn kỵ mã mà đoàn ngựa chiến không những không sợ đàn tượng binh của bà Bùi Thị Xuân mà còn phối hợp khi giao tranh với quân địch. Ðô đốc Lý và con Hồng Lư có mặt trên khắp chiến trường từ trận đánh với quân Xiêm năm 1784, tháp tùng Vua Quang Trung ra Bắc tảo trừ quân Thanh kéo vào Thăng Long đến các trận ở đồn Yên Quyết, Nhân Mục rồi Khương Thượng. Sau khi Hoàng đế Quang Trung băng hà, triều chính Tây Sơn đổ nát, Ðô đốc Lý viện cớ tuổi già sức yếu từ quan lui về quê sống lại nghề cũ nơi mảnh đất quê hương thân yêu.

Ngoài 5 thần mã trên, Bình Ðịnh còn có con Bằng Châu kỳ mã và Linh Phong song tuấn mã.

Bằng Châu kỳ mã là ngựa của ông Ðinh Cường ở Bằng Châu thuộc huyện An Nhơn, thầy dạy võ của ba anh em nhà Tây Sơn, vẫn được dân gian gọi là "Ông chảng ngang trời". Con ngựa của ông cũng giống như con Bạch Long của Thái Ðức Nguyễn Nhạc. Con ngựa này là ngựa Huyết hãn bạch tạng, lông trắng như tuyết, hai con mắt đỏ ngầu như hai hòn than, chạy nhanh như gió, thuộc loại Thiên lý mã. Nó được huấn luyện gặp sông sâu, lửa cháy những hễ chủ giục, ngựa vẫn xông vào. Chủ lâm nạn ngựa biết tìm đường chạy về nhà báo tin bằng cách dậm chân, hí rống.

Linh Phong song tuấn mã là con ngựa Hồng của Nguyên soái Mai Xuân Thưởng (1860-1887) thủ lãnh Cần Vương chống Pháp và con ngựa Ô (dòng Ô Du) của Quản trấn Trần Tân, thường gọi là Quản Nhã hay Quản Trần. Ðó là hai con ngựa giống Bắc Thảo, thường đi song đôi với nhau thân thiết như đôi bạn nên gọi là Song Tuấn Mã và rất mực trung thành với chủ. Chuyện kể rằng trong trận thủy bối ở Bầu Sấu, Mai Nguyên soái bị trúng đạn, con ngựa Hồng chở Mai Nguyên soái nhào xuống Bầu Sấu lội một mạch sang bên kia bờ chạy thẳng về Phú Lạc. Sau ngựa Hồng theo Nguyên soái vào Linh Ðổng ẩn thân. Trên bước đường hoạn nạn, ngựa Hồng luôn theo sát bên chủ. Khi Mai Nguyên soái bị bắt cầm tù thì ngựa Hồng bỏ ăn. Ai đến gần thì ngựa hí, cắn, đá dứt khoát không cho ai cưỡi. Lúc Nguyên soái ra pháp trường thọ hình, ngựa Hồng cùng đến, cất vó hí lên lồng lộng rồi chạy thẳng về mật khu Linh Ðổng.

Con ngựa Ô Du của Quản Trần cũng trung nghĩa không kém. Khi Quản Trần bị bắt, ngựa Ô liền chạy về nhà hí thảm thiết báo nguy. Quản Trần chết, ngựa Ô đi theo linh cữu đưa chủ ra mộ, nước mắt ròng ròng. Chôn cất xong, ngựa Ô ở lại không chịu về, đói ra gò ăn cỏ, khát xuống bàu uống nước, đến ngày tuần thì chạy về nhà giây lát rồi chạy ra mộ trở lại. Ðến ngày tuần chung thất (49 ngày), ngựa Ô chạy về nhà hí rống một tiếng dài rồi chạy ra mộ hí tiếp một tiếng nữa đoạn chạy thẳng lên Linh Ðổng sống với con ngựa Hồng của Mai Nguyên soái. Thời gian lâu sau, người ta không còn thấy bóng dáng ngựa Ô ngựa Hồng đâu nữa.

Tuấn mã của triều Nguyễn

Những danh mã nước Việt: Từ thiết mã của Thánh Gióng đến ngựa què của Bác Hồ - Ảnh 5.

Ngựa trên Cửu Đỉnh tại cố đô Huế - Ảnh: VGP/Xuân Hồng.

Vang bóng vàng son một thời trong tàu  ngựa của vua chúa Việt Nam còn có bảy con ngựa nổi danh của Hoàng đế Minh Mạng (1791-1841), triều Nguyễn: Phúc Thông, Cát Thông, An Tường Ký, Thần Lương, Phúc Lưu, Cát Lưu và Thiên Mã.

Sử sách còn ghi lại, con An Tường Ký có nước Kiệu chạy rất êm. Vua Minh Mạng đã nhận xét về nó như sau: Đô thống Pham Văn Điển có dâng con ngựa trắng, dù không là giống ngựa tuyệt trần chạy bay như mây, nhưng trẫm cưỡi thấy được yên ổn nên gọi nó là An Tường Ký.

Còn con Thiên Mã là ngựa ở Tây Vực, thuộc miền Trung Á, được nhập vào trong tàu ngựa của Hoàng đế năm 1830.

Dưới thời Hoàng đế Thiệu Trị (1807-1847) có Thiên lý mã Ðại Uyển Long Tuấn và Tuấn mã Thiện Lương Đề. Hoàng đế Thiệu Trị đã ban dụ về con Thiên lý mã của mình như sau: "Ta đã sai giong yên ngồi cưỡi, chạy nhanh như chớp gió, thật vượt mức trong các loài ngựa có 4 nước đại và 3 đợt nhảy cao, lại cao siêu hơn loài ngựa có 9 đức tính tốt và 8 thứ ngựa giỏi, nên ban cho tên đẹp để tỏ cái đức con ngựa... Nay gọi tên là Đại Uyển Long Tuấn."

Hiện các lăng tẩm triều Nguyễn vẫn còn 10 tượng ngựa đá nguyên bản tại các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Đồng Khánh, Khải Định, mỗi lăng lưu giữ được 2 tượng ngựa đá. Riêng lăng Tự Đức thì hai tượng ngựa đá được làm lại sau này nhưng vẫn đảm bảo tính nguyên bản khi xây dựng.

Chuyện con ngựa què và bức thư của Bác Hồ

Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam hiện còn giữ một bức thư của Bác Hồ gửi đồng chí Trần Đăng Ninh mà hoàn cảnh ra đời của nó rất thú vị và bổ ích. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 1, người trao tặng bức thư cho Bảo tàng kể:

Những danh mã nước Việt: Từ thiết mã của Thánh Gióng đến ngựa què của Bác Hồ - Ảnh 6.

Bác Hồ trên đường đi công tác bằng ngựa.

Khoảng cuối tháng 10/1950, chiến dịch Biên Giới kết thúc thắng lợi. Bác Hồ từ Cao-Bắc-Lạng trở lại Thái Nguyên. Thấy Bác trải qua những ngày tham gia chỉ đạo chiến dịch gian khổ, mệt nhọc, sức khỏe có phần giảm sút, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, đề xuất chuẩn bị xe ô tô để Bác về. Nhận thấy điều kiện trời mưa nhiều, đường lầy lội, sụt lở đất, ô tô khó đi, Bác quyết định đi bộ theo đường 3B từ Cao Bằng-Tài Hồ Sìn-Bằng Khẩu-Ngân Sơn-Nà Phạc-Nà Cù-Bắc Kạn-Thái Nguyên, cho thoải mái và chủ động, dễ dừng chân thăm đồng bào, thăm bộ đội, dân công, ngắm cảnh thiên nhiên, lại khỏi bị máy bay địch quấy rầy.

Trước khi Bác ra về, đồng chí Trần Đăng Ninh chỉ thị Trạm vận tải Cao Bằng lấy một con ngựa tốt để Bác đi. Anh em Trạm vận tải chọn được một con ngựa béo, rất hiền, chân đóng móng sắt cẩn thận. Hơn một tuần sau ngày Bác về Cao Bằng, ngày 29/10/1950, đồng chí Trần Đăng Ninh nhận được một bức thư Bác gửi. Trong thư, Bác có viết: "Cảm ơn" người đã cho mượn con ngựa què nên "khen" người nuôi con ngựa què ấy.

Thì ra, ngựa mới chở Bác đi được một chặng đường thì chiếc móng long dần, rồi tuột khỏi chân ngựa, văng đi mất. Con ngựa to khỏe thế bỗng chốc đi khập khiễng vì 3 chân cao, một chân thấp,  trở thành ngựa què, không cưỡi được cũng không thồ hàng được. Không những chẳng giúp gì được cho Bác, chú ngựa trở thành gánh nặng, anh em cùng với Bác phải lo chăm sóc, nuôi nấng ngựa.

Đọc xong thư, đồng chí Trần Đăng Ninh trao thư cho Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê, khi đó là thư ký, và nói: "Cậu đọc kỹ đi rồi giữ làm kỷ niệm".

Khi kể lại câu chuyện này, tướng Nguyễn Hữu Lê nói rằng, trong suốt cuộc đời quân ngũ của mình, chuyện con ngựa què và bức thư của Bác luôn nhắc nhở ông: Dù làm việc lớn hay nhỏ đều phải hết sức cẩn thận chu đáo, phải kiểm tra cụ thể, làm đến nơi đến chốn, đừng để ý định thì tốt nhưng kết quả đạt được lại không như mong muốn.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem