Vòng đàm phán đầu tiên
Lần đầu tiên tôi có bài phỏng vấn Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai là cuối tháng 11.1991, mặc dù trước đó tôi đã có khá nhiều cuộc tiếp xúc, làm việc với ông. Khi ấy tôi đang là bình luận viên quốc tế Báo Quân đội Nhân dân (QĐND) đặc trách quan hệ Việt- Mỹ. Cuộc phỏng vấn được thực hiện khi Thứ trưởng Lê Mai vừa kết thúc phiên đàm phán đầu tiên với Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ về Đông Á - Thái Bình Dương Robert Solomon ngày 21.11.1991. Đây là vòng đàm phán chính thức đầu tiên về bình thường hóa quan hệ Việt- Mỹ. Trong bài phỏng vấn này (được đăng trên trang nhất báo QĐND ngay ngày hôm sau), Thứ trưởng Lê Mai đã nói rằng, quan hệ Việt Nam- Mỹ đang ấm dần lên và có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên ông cũng cảnh báo rằng, chặng đường phía trước còn đầy cam go và có những diễn biến khó lường, cần hết sức tỉnh táo, nhưng việc bình thường hóa là không thể đảo ngược được.
Thứ trưởng Lê Mai (phải) và Thượng nghị sĩ John Kerry trả lời các nhà báo sau một phiên họp tại Hà Nội tháng 11.1992. Ảnh: AFP
Những gì mà Thứ trưởng Lê Mai dự báo sau này đã diễn ra đúng như vậy. Ngày 11.7.1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Để có được sự kiện bước ngoặt trong nền ngoại giao Việt Nam nói chung và quan hệ Việt-Mỹ nói riêng này, cả hai bên đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thậm chí là sự phản đối cả từ phía Mỹ lẫn phía ta.
Trong cuộc trò chuyện hôm ấy, Thứ trưởng Lê Mai đã nói nhiều và khá kỹ về những vấn đề mà ông cho là rào cản mà cả hai bên đều phải vượt qua. Ông nói, hai chướng ngại bao trùm là Việt Nam đóng quân tại Campuchia và vấn đề tù binh chiến tranh (Prisoner of War) và người Mỹ mất tích (Missing in Action). Sau này chúng ta gọi tắt là vấn đề POW/MIA. Đầu những năm 1990 vấn đề Campuchia đã được giải quyết, nhưng vấn đề POW/MIA vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Hóa giải những cái “đầu nóng”
Đấy là những thông tin được đăng tải trên báo QĐND. Tuy nhiên còn những vấn đề mà Thứ trưởng Lê Mai nói đã chưa hề được công bố vào thời điểm ấy. Ông bảo cái khó khăn nhất đối với chính quyền của Tổng thống G.Bush là người dân Mỹ vẫn không hài lòng về vấn đề POW/MIA.
Ngay sau Hiệp định Paris năm 1973, Việt Nam đã trao trả 590 tù binh Mỹ bị bắt ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Tuy nhiên người Mỹ vẫn cho rằng còn tới 2.646 lính Mỹ mất tích. Trong số đó không ai biết được có bao nhiêu lính Mỹ đã chết mà không thể tìm được hài cốt. Những cố gắng tìm kiếm của Chính phủ Mỹ ở Lào và Campuchia đã không làm hài lòng người dân Mỹ. Họ cho rằng chính quyền Mỹ chưa làm hết sức mình trong việc tìm kiếm POW/MIA.
“Còn cái khó khăn nhất từ phía Việt Nam chúng ta là gì?”. Tôi còn nhớ, khi ấy ông Lê Mai chần chừ một lúc rồi bảo: “Cái khó khăn nhất từ phía Việt Nam chúng ta là làm sao hóa giải “những cái đầu nóng” của một bộ phận vẫn nhìn Mỹ như là “kẻ thù chiến lược”.
Trong bối cảnh “trong chưa thực sự ấm”, “ngoài chưa thực sự êm” ấy thì những đóng góp của các nhà ngoại giao Việt Nam, đặc biệt là Thứ trưởng Lê Mai là hết sức quan trọng.
Ông Lê Mai sinh năm 1940 tại Huế, từng là Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan. Ông còn có vai trò quan trọng trong tiến trình Việt Nam gia nhập khối ASEAN.
Tôi đã có dịp phỏng vấn các nghị sĩ, thượng nghị sĩ Mỹ, những người có vai trò quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Mỹ như Thượng nghị sĩ John Kerry, John McCain, Bob Smith…, và trao đổi với các đồng nghiệp phương Tây, đặc biệt là các phóng viên Mỹ, khi nói về Thứ trưởng Lê Mai, họ đều cảm phục và kính trọng. Họ luôn đồng nhất ông với câu nói nổi tiếng (của ông) như là biểu tượng của quan hệ Việt- Mỹ “Việt Nam là một đất nước chứ không phải là một cuộc chiến tranh”.
Nhà ngoại giao xuất sắc
Lần cuối cùng tôi gặp Thứ trưởng Lê Mai là tại cuộc họp báo quốc tế về bình thường hóa quan hệ Việt- Mỹ tại Nhà khách Chính phủ, số 2 Lê Thạch, Hà Nội. Một cuộc họp báo đông chưa từng thấy. Cũng cần nói thêm rằng, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai là một trong những chính khách hiếm hoi rất được lòng giới báo chí cả trong lẫn ngoài nước. Lúc này tôi đã chuyển công tác và đang là Trưởng Văn phòng đại diện báo Tuổi trẻ TP.HCM tại Hà Nội. Tôi đã đặt câu hỏi cho Thứ trưởng Lê Mai: “Nếu được bổ nhiệm làm Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Mỹ thì công việc đầu tiên ông làm làm gì, thưa Thứ trưởng?”. Phòng họp báo ồn ào hẳn lên. Ngưng một lát, khi phòng họp trở lại yên lặng, ông mỉm cười: “Hiện tại chưa có quyết định đó. Nếu có một quyết định như vậy thì việc đầu tiên tôi sẽ suy nghĩ là mình cần phải làm gì”. Cả phòng họp báo lại ồn ào.
Tiếc rằng, đó là câu nói cuối cùng mà tôi được nghe Thứ trưởng Lê Mai nói. Gần một năm sau đó, ngày 13.6.1996, ông đột ngột qua đời ở tuổi 56.
Đó thực sự là một mất mát to lớn đối với nền ngoại giao Việt Nam nói chung và quan hệ Việt- Mỹ nói riêng.
Tháng 6.2006, tưởng niệm 10 năm ngày Thứ trưởng Lê Mai qua đời, trên tờ “The Wall Street Journal”, nhà bình luận chính trị nổi tiếng, chuyên gia nghiên cứu hàng đầu về Đông Nam Á đã viết: “Mối bang giao hữu hảo Mỹ - Việt Nam mang ơn rất nhiều một con người với dáng điệu mảnh mai, hay mỉm cười, đã ra đi vào dịp này của 10 năm về trước. Nếu không có ông Lê Mai, nhà ngoại giao kỳ cựu của chính quyền Hà Nội, thì Việt Nam khó có thể mời được Tổng thống G.Bush sang thăm Hà Nội vào tháng 11.2006 và đưa Việt Nam tới ngưỡng cửa của gia nhập WTO”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ
Đúng 8 giờ (giờ địa phương, tức 19 giờ Việt Nam) ngày 6.7, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã đến sân bay quân sự Andrews, ở thủ đô Washington D.C, bắt đầu chuyến thăm chính thức Mỹ. Đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tại sân bay quân sự Andrews có đại diện Chính phủ Mỹ; Đại sứ Việt Nam Phạm Quang Vinh cùng các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và đông đảo bà con người Việt tại Mỹ; các vị đại sứ, đại biện các nước Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tại Mỹ. Đây là lần đầu tiên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thăm chính thức Mỹ.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.