I Was Born But… (Ozu Yasujiro, 1932)
Được thực hiện vào cuối thời kì phim câm ở Nhật, I Was Born But… lấy bối cảnh tại vùng ngoại ô Tokyo, nơi gia đình Yoshi vừa mới chuyển tới cùng với hai cậu con trai nhỏ, Keiji và Ryoichi. Vốn là những đứa trẻ mới tới, nên Keiji và Ryoichi tức thì trở thành nạn nhân bị ăn hiếp ở đó, chúng phải cúp học để tránh mấy đứa trẻ khác.
Hãnh diện về người cha công chức, hai anh em sau đó đi xem bộ phim tự dàn dựng của cha chúng với những người đồng nghiệp, và nhận ra người cha mà chúng thần tượng thực ra là người bị bạn bè ông chà đạp, cha mẹ chúng không phải những người khổng lồ mà chúng hằng tưởng. Toàn bộ tình huống lộn xộn ồn ào của thời niên thiếu đều ở đây, được vạch ra mà không cần dùng đến tính chất xúc cảm hay đáng yêu ở lứa tuổi trẻ con.
Không có gì ngạc nhiên khi trong số những phim tập trung vào trẻ em như Treeless Mountain (2008) của So Young Kim và I Wish (2011) của Hirokazu Koreeda, thì viên đá quí này của Ozu vẫn còn là một mẫu mực đáng lưu tâm.
Pather Panchali (Satyajit Ray, 1955)
Lấy nguồn cảm hứng từ những bộ phim hiện thực thời hậu chiến của Ý như Shoeshine (1946) và Bicycle Thieves (1948), Ray đã hoạch định tất cả trong đầu cho bộ phim đầu tay của mình và bắt đầu tiến hành quá trình sản xuất, với nguồn ngân sách vô cùng hạn hẹp, cho bộ phim Pather Panchali, một chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết năm 1929 của Bibhutibhushan Bandopadhyay.
Đây là phần đầu tiên cho bộ ba phim về nhân vật Apu, dõi theo những nỗi đau ngày càng tăng dần của một cậu bé ở nông thôn vùng Bengal. Đầy chất thơ và có chất nhạy cảm, Pather Panchali ghi nhận những nỗi nhọc nhằn của đời sống nhà quê và những nỗi sầu muộn của thời gian trôi đi, nhưng vẫn đưa ra những điều kì diệu và niềm hào hứng của tinh thần khám phá thời thơ ấu.
Trong một cảnh phim tràn đầy sinh lực, Apu (Subir Banerjee thủ vai) và chị gái cậu ta lao đi trong cơn hào hứng băng qua cánh đồng lúa để có thể lướt nhìn chiếc xe lửa chạy ngang qua.
L’Enfance-nue (Maurice Pialat, 1968)
Chỉ xuất hiện sau một chút so với những bộ phim đột phá đầu tiên của những đồng nghiệp đương thời thuộc phong trào điện ảnh Làn sóng Mới của Pháp, bộ phim đầu tay của Maurice Pialat là bản mô tả khốc liệt và gây choáng váng về một đứa bé được nhận nuôi, François, được chuyển từ nhà này sang nhà khác ở vùng ngoại ô buồn tẻ thuộc miền bắc nước Pháp.
Mặc dù hoàn cảnh của François rất tuyệt vọng, nhưng Pialat từ chối cách làm con tim người xem thổn thức, ông khắc hoạ cậu bé gây rối 10 tuổi có vẻ hung bạo, đôi lúc dữ tợn, và còn bị cảnh ngộ khốn khổ làm cho cậu bé trở nên trơ lì hơn.
The Spirit of the Beehive (Victor Erice, 1973)
Trong phim The Spirit of the Beehive, khi những người điều khiển máy chiếu lang thang xuất hiện ở một ngôi làng vùng Castile vào cuối giai đoạn nội chiến Tây Ban Nha, việc chiếu bộ phim Frankenstein kinh dị năm 1931 đã có tác động khủng khiếp đối với cô bé Ana sáu tuổi.
Đã thế còn bị hoảng sợ do cô chị cho biết có thể triệu hồi linh hồn của con quái vật bằng cách gọi nó ra, vậy là cô bé bắt đầu tin rằng người lính lánh nạn đang ở kho thóc gần đó có thể là tác phẩm của Frankenstein đi vào đời thực. Tràn ngập hình ảnh hớp hồn người xem, bộ phim đầu tay của Victor Erice còn có chức năng là một phúng dụ về chế độ độc tài Franco và là một trong những tác phẩm dàn dựng sâu sắc nhất của điện ảnh về nỗi kinh ngạc và khiếp sợ đầy vẻ thơ ngây của một đứa trẻ sống nội tâm.
Au revoir les enfants (Louis Malle, 1987)
Vào mùa đông năm 1943-1944, một cậu bé mới tên là Jean Bonnet đến trường và làm dấy lên trước tiên là lòng ganh tị sau đó là sự tò mò của cậu bé Julien. Đây là người bắt đầu nhận ra ‘Jean’ là người Do Thái và được che giấu trong nhà trường để tránh bị Đức Quốc xã bắt đi.
Ngoại trừ những lúc còi hụ rền vang báo hiệu có đợt oanh tạc, thì bản thân cuộc chiến dường như đang xảy ra ở một nơi xa xăm nào đó, khung cảnh chính trị cũng cách xa đời sống ngôi trường nội trú ngập tràn những trò đùa tinh quái, những màn ăn hiếp và những bức bối dục tính. Nhưng đột nhiên, mức độ nghiêm trọng của cuộc áp bức từ người Đức, và những hệ quả gây tổn hại đối với những nhân vật trẻ tuổi này bỗng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Tác phẩm của Malle là một bộ phim dày xé tâm can về sự ngây thơ và phản bội, và về thời điểm nhận ra rằng mỗi người chúng ta phải sống theo chính hành động của bản thân.
Hope and Glory (John Boorman, 1987)
Vào cuối thập niên 1980 xuất hiện nhiều bộ phim khơi gợi cảm xúc nói về trẻ em trong thời thế chiến thứ nhì. Trong đó, Hope and Glory của John Boorman được dựng lên từ trải nghiệm thực tế – ở trường hợp này là chính trải nghiệm của đạo diễn Boorman, khi còn là đứa bé lớn lên tại London trong thời gian quân Đức oanh tạc nước Anh.
Hành động khủng bố và hủy diệt của những đợt rải bom khắp thủ đô nước Anh mang lại cảm giác sâu sắc, nhưng đối với đứa bé Bill 10 tuổi thì chúng còn mang lại sự lôi cuốn, hào hứng, thậm chí cả vẻ đẹp. Hơn nữa, những vỏ thân máy bay nơi mấy căn nhà đã cho cậu bé và bạn cậu ta khoảng sân chơi rộng lớn, thay đổi từng ngày, đó là bộ mặt của vùng ngoại ô London thay đổi sau mỗi đợt tấn công.
Celia (Ann Turner, 1989)
Lấy bối cảnh ở ngoại ô Melbourne những năm 1950, đây là bức chân dung một cô bé chín tuổi luôn gặp phải rắc rối (đây là màn trình diễn tự nhiên đầy ấn tượng của Rebecca Smart) và nỗi kinh hoàng đè nặng lên tâm trí nhạy cảm của cô bé.
Hành vi giết hại thỏ của chính quyền đã ám ảnh suy nghĩ cô bé vào buổi ban ngày, trong khi bọn “Hobyah” gớm ghiếc mà cô bé đọc được ở trường lại chui vào những cơn ác mộng của cô bé – lòng phiền não chất chứa trong đầu cô bé về cái chết và cơn hoang tưởng vốn càng ngày càng làm cho trí tưởng tượng của Celia trở nên rối rắm và xoắn xuýt lại trong suốt mùa hè oi bức ở nước Úc năm ấy. Tuner không bao giờ làm ra được bất kì phim nào gây âm vang đến như thế, nhưng bộ phim đầu tay này vẫn tiếp tục ám ảnh những ai lần tìm đến nó.
The Apple (Samira Makhmalbaf, 1998)
Câu chuyện về hai chị em 12 tuổi bị người cha sùng đạo và người mẹ mù lòa giam hãm trong chính nhà mình, do hai người này tin rằng nếu để hai đứa con gái mình tiếp xúc với cõi sống bên ngoài thì sẽ dẫn tới tâm hồn mục nát. Bộ phim này được đặt trên đường ranh giữa thực tế và hư cấu. Không chỉ tình huống được mô tả là chuyện có thực, mà còn bởi vì những người ngoài đời thực việc thực đó thủ vai của chính họ trong “câu chuyện” này.
Khi những người làm công tác xã hội buộc hai người cha mẹ kia cho phép cho gái mình ra ngoài đường phố, bộ phim đã ghi lại những ấn tượng ngập ngừng của hai chị em đó trước cảnh tượng thế giới bên ngoài vốn từ lâu đã chối bỏ chúng. Bộ phim được Samira Makhmalbaf đạo diễn khi cô mới 17 tuổi, đây là tác phẩm điện ảnh đầu tiên mà đã chín chắn một cách đáng ngạc nhiên, và nó là sự kết hợp giữa đòn công kích vào xã hội áp bức với bản ca tụng đầy niềm vui những cảm nhận đang tỉnh thức.
Duy Đoàn (Thế giới điện ảnh)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.