Nhắc đến “Tứ đại danh tác” của văn học Trung Quốc, nhiều người sẽ thuộc làu 4 tên gọi quen thuộc của các tác phẩm, bao gồm Hồng lâu mộng, Tây du ký, Thủy hử truyện và Tam quốc diễn nghĩa.
Trong số này, Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký và Hồng lâu mộng đều có tiêu đề rất dễ hiểu, nội dung và tên sách cũng có nhiều điểm liên quan và bổ trợ cho nhau. Thế nhưng, so với ba tác phẩm nằm trong “Tứ đại danh tác”, Thủy hử truyện lại là bộ tiểu thuyết sở hữu tên gọi khó hiểu nhất. Bởi lẽ, xuyên suốt câu chuyện kể về cuộc đời của 108 vị anh hùng Lương Sơn, 2 chữ Thủy hử trong bản nguyên tác bằng tiếng Trung thậm chí chẳng xuất hiện lấy 1 lần.
Cho nên, mặc dù Thủy hử truyện vô cùng nổi tiếng, nhưng ý nghĩa của hai chữ Thủy hử thì lại không hề dễ hiểu.
Những người biên dịch cuốn tiểu thuyết lưu danh kim cổ ấy thành sách ngoại văn cũng bởi vậy mà thường xuyên gặp khó khăn trong việc giải nghĩa và lựa chọn tên nước ngoài cho tác phẩm.
Điều này khiến hậu thế không khỏi thắc mắc rằng, tại sao Thi Nại Am không lấy tên tác phẩm để đời của mình là Thủy Bạc Lương Sơn hay Lương Sơn truyện cho dễ hiểu? Hai chữ Thủy hử trong tên tác phẩm xuất phát từ đâu và có ý nghĩa gì?
La Quán Trung là “cha đẻ” của tên gọi Thủy hử truyện?
Nhà văn Thi Nại Am.
Đã có nhiều tài liệu cho rằng Thi Nại Am chính là La Quán Trung, nhưng cũng có tài liệu lại viết rằng: “Trong khoảng thời gian mở lớp dạy học, biết được danh tiếng của Thi Nại Am nên cha của La Quán Trung đã tìm gặp Thi Nại Am và xin cho con trai mình theo học. Người học trò đó đã theo và giúp đỡ sự nghiệp của thầy suốt những năm tháng sau này”.
Tác phẩm nổi tiếng nhất này của Thi Nại Am khi hoàn thành nó không có tên Thủy hử như ngày nay mà là Khách truyện giang hồ. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Thi Nại Am cảm thấy cái tên này không đủ hàm ý như ông mong muốn.
Đúng lúc đó, học trò của Thi Nại Am là La Quán Trung đã đề nghị với thầy mình rằng: “Thưa thầy, con cho rằng nên đổi tên thành Thủy hử truyện”.
Thi Nại Am nghe xong liền cảm thấy thích thú với cái tên súc tích nhưng giàu ý nghĩa này, gật đầu và chắp bút viết ba chữ Thủy hử truyện làm tiêu đề.
Cho tới ngày nay, việc La Quán Trung có thực sự là học trò của Thi Nại Am hay không vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Nhưng giai thoại về việc tác giả của Tam quốc diễn nghĩa là người nghĩ ra cái tên Thủy hử truyện vẫn được hậu thế kể cho nhau nghe trong những lúc mạn đàm.
Cái tên nhiều lớp nghĩa
Về ý nghĩa của tên gọi Thủy hử truyện người đời sau chủ yếu lý giải theo hai lớp nghĩa sau.
Thứ nhất, hai chữ Thủy hử có nghĩa là “bến nước”. Đặt tên là Thủy hử truyện để khắc ghi về nơi các vị anh hùng đã có dịp tương ngộ với nhau rồi mới lên Lương Sơn tụ nghĩa. Cách lý giải đơn giản và sát nghĩa với tên truyện này nhận được sự tán thành của phần đông độc giả.
Tuy nhiên, các chuyên gia về văn học, lịch sử lại cho rằng, cái tên Thủy hử truyện là đại diện tiêu biểu cho thủ pháp văn học quen thuộc của người Trung Quốc tên là “dụng điển”.
Theo đó, “dụng điển” là một hình thức trích dùng các câu chuyện cổ hoặc một số câu chữ trong điển tích xưa, từ đó biểu đạt nội dung và tư tưởng có liên quan bằng những mỹ từ phong phú mà súc tích.
Cũng theo lý giải của giới chuyên gia, Thủy hử là hai chữ bắt nguồn từ bài “Miên” (Đại Nhã) thuộc Kinh Thi, kể về cuộc thiên cư lần thứ hai của tộc Chu. Trong đó có câu: “Cổ Công Đản Phủ, lai hướng tẩu mã, suất tây thủy hử, chí vu kỳ hạ”.
Những câu chữ này bắt nguồn từ câu chuyện kể về tổ phụ của dòng họ Chu - tức Cổ Công Đản Phụ hay còn gọi là Chu Thái vương. Tương truyền rằng, Cổ Công Đản Phụ sinh hạ vào lúc nhà Thương đang ở thời kỳ thịnh trị.
Vào thời bấy giờ, bộ tộc Chu đang sống tại đất Mân - một mảnh đất nơi biên thùy cằn cỗi thường xuyên chịu sự quấy phá của các thế lực dũng mãnh phía bên ngoài. Suốt hàng chục năm trời, họ đã phải chịu cảnh thiếu cơm ăn áo mặc, ngày ngày sống trong nguy hiểm.
Chỉ đến khi bộ tộc một vị lãnh tụ kiệt xuất là Chu Thái Vương ra đời, bộ tộc ấy mới lập được kỳ tích. Chu Thái Vương Cổ Công Đản Phụ là cháu đời thứ 16 của Hiên Viên Hoàng đế và là hậu duệ đời thứ 12 của Chu Tổ Hậu Tắc, cũng là một lãnh đạo xuất sắc của bộ tộc Chu.
Dưới sự suất lĩnh của Đản Phụ, bộ tộc Chu đã trải qua nhiều nguy hiểm mới có thể ly khai đất Mân, vượt qua sông Tất, sông Thư, núi Lương để tới định cư tại Kỳ Sơn (nay thuộc thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc).
Vùng đất mới này chẳng những có đất đai phì nhiêu mà lại tránh khỏi sự quấy phá của các thế lực ngoại tộc khác.
Cứ như vậy, bộ tộc Chu ở Kỳ Sơn bắt đầu phát triển lớn mạnh, cuối cùng sau này có thể thay thế nhà Thương, lập nên nhà Chu và có nhiều ảnh hưởng sâu sắc tới
Thực chất, tên gọi của tác phẩm “Thủy Hử truyện” lại bắt nguồn từ một điển cố lâu đời được lưu lại trong Kinh Thi.
Bởi vậy, câu thơ có hai chữ Thủy hử kia là thi ca để người thuộc bộ tộc họ Chu dùng để tưởng niệm và ca tụng công lao của Đản Phụ, mà hai chữ Thủy hử trong đó dùng để chỉ nơi mà Đản Phụ đã dẫn dắt bộ tộc đến an cư, cũng chính là vùng đất mà họ Chu đã hưng thịnh sau này.
Vì vậy, ý hiểu đúng của hai chữ Thủy hử là để chỉ “đường ra”, là “nơi an thân”, thường dùng để chỉ nơi ổn định cuộc sống trong hoàn cảnh túng quẫn.
Nếu hiểu theo ý nghĩa từ điển cố này, có thể thấy tên gọi Thủy hử truyện không hề khó hiểu mà còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Bởi dù là Tống Giang, Võ Tòng hay Lâm Xung… thì họ đều vì những nguyên nhân khác nhau mà trở nên không có đất dung thân trong xã hội bình thường.
“Đường ra” của những con người ấy đều đã bị chặt đứt, mà lên Lương Sơn tụ nghĩa chính là lối đi duy nhất để họ có thể sống sót, cũng là nơi duy nhất có đất dung thân cho những anh hùng, hảo hán sa cơ lỡ bước.
“Đường ra” nào cho các anh hùng Lương Sơn Bạc?
108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc.
Đọc cuốn tiểu thuyết Thủy hử truyện độc giả không khỏi hy vọng rằng sau khi đã lên núi tụ nghĩa, 108 vị anh hùng ấy lại có thể tìm thấy một “đường ra” mới.
Thế nhưng, trong một bối cảnh xã hội như vậy, liệu số phận của họ có tồn tại một “đường ra” khác hay không? Đó chính là điều mà tác giả Thi Nại Am muốn tìm kiếm.
Cho nên, nửa trước của Thủy hử truyện có nội dung rất dễ hiểu, kể về một nhóm các anh hùng hảo hán không có “đường ra” trong xã hội, bị buộc phải tìm đến Lương Sơn.
Hoàn cảnh của những con người ấy cũng giống như bộ tộc họ Chu của Đản Phụ năm xưa. Mà con đường lên Lương Sơn tụ nghĩa của họ cũng giống như việc Đản Phụ dẫn dắt bộ tộc của mình di chuyển đến một vùng đất an cư lạc nghiệp vậy.
Thế nhưng, kết cục của những con người thuộc bộ tộc họ Chu lại khác hẳn với những anh hùng hảo hán Lương Sơn.
Bởi cuối cùng, bộ tộc Chu lấy nông canh làm chủ đã thay thế dòng tộc họ Thương lấy buôn bán làm chủ (hai chữ “thương nhân” cũng bắt nguồn từ thói quen buôn bán của người bộ tộc Thương), từ đó sáng lập nên vương triều nhà Chu.
Vậy còn kết cục của 108 vị anh hùng Lương Sơn thì sao? Họ có thể dùng lá cờ trượng nghĩa của mình để thay thế cho vương triều Đại Tống đang bị sâu mọt tàn phá lúc bấy giờ không?
Đáp án cho câu hỏi ấy chính là sự thực đau lòng mà những người từng đọc, từng xem Thủy hử không mấy ai muốn nhắc tới.
Kỳ thực, cuộc đời của những anh hùng ấy vốn không tồn tại thứ gọi là “đường ra”, mà lên Lương Sơn chỉ là một lối thoát tạm thời cho hết thảy những sự hắt hủi xã hội đùn cho họ mà thôi.
Thi Nại Am không để cho Tống Giang cùng các thế lực của mình tạo phản thành công. Bởi bối cảnh phong kiến đương thời không cho phép tác giả làm điều đó.
Tạo phản không có đường, tự nhất thống cũng không được, “đường ra” duy nhất mà Thi Nại Am tạo ra cho các nhân vật của mình chính là chấp thuận chiêu an.
Tương truyền là sau khi Thi Nại Am đã sáng tác xong 70 hồi truyện Thủy hử, vua nhà Nguyên đọc xong đã nổi giận bắt giam Thi Nại Am và hạ lệnh phải viết tiếp đoạn sau, kể về việc Lương Sơn Bạc bị dẹp bỏ, nếu không sẽ bị xử tội. Sở dĩ có tình tiết này là vì trong 70 hồi đầu tiên, Thi Nại Am đã miêu tả quá trình tập hợp của các anh hùng thảo dã tại bến nước để hình thành quân khởi nghĩa Lương Sơn Bạc. Cốt truyện chính của 70 hồi này là sự hình thành và quá trình phát triển đến cực thịnh của một nhóm người chống triều đình mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc. Triều đình nhà Tống đã nhiều lần phát quân đi đánh dẹp nhưng đều bị quân khởi nghĩa đánh bại.
Đứng trước tình hình có thể bị xử tử vì cốt truyện có mang tính “phản động”, Thi Nại Am lo lắng, bèn cho gọi học trò là La Quán Trung tới nhà lao cùng bàn bạc. Hai thầy trò cùng nhau thống nhất ý tưởng viết hậu Thủy hử kể việc thất bại của quân Tống Giang. Sau một năm, Hậu Thủy hử hoàn thành, hai thầy trò mang dâng vua Nguyên. Vua Nguyên xem xong rất bằng lòng, hạ lệnh thả Thi Nại Am.
Tống Giang chấp thuận chiêu an.
Kỳ thực, kết cục bi thương của câu chuyện này không bắt nguồn từ cái sai của Tống Giang, mà là do bản chất Thủy hử truyện vốn là một tác phẩm bi kịch tả thực về những lý tưởng bị tan vỡ bởi thực tại xã hội đương thời.
Quốc Tiệp (Người Đưa Tin)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.