Bài học bảo hộ ngành đường từ các quốc gia trong khu vực
Ngành đường Việt Nam nhiều năm nay đã "thấm đòn" vì phải đối diện với tình trạng nhập lậu đường qua biên giới, sau khi hội nhập ATIGA, nghiêm túc tuân thủ cam kết không giới hạn lượng đường nhập khẩu từ các nước trong khu vực và áp dụng mức thuế 5% với đường thô và đường tinh luyện, ngành đường lại chịu thêm "cú đấm bồi" với tổn thất nặng nề hơn bởi Thái Lan - quốc gia xuất khẩu đường lớn nhất vào Việt Nam, liên tục triển khai các biện pháp bán phá giá và cạnh tranh không lành mạnh.
Cụ thể, các doanh nghiệp xuất khẩu đường Thái Lan được Chính phủ hỗ trợ để xuất khẩu đường thô và tinh luyện vào Việt Nam với giá chỉ 334USD/tấn, rẻ chỉ bằng 40% giá đường nội địa ở nước họ (755UUSD/tấn). Mỗi năm, chính phủ nước này còn hỗ trợ cho ngành đường ít nhất 1,3 tỉ USD, bao gồm trợ cấp xuất khẩu gián tiếp thông qua hệ thống bình ổn giá đường. Đến tháng 4/2020 vừa qua, 325 triệu USD trợ cấp lại tiếp tục được bơm vào ngành đường để hỗ trợ nông dân mua tư liệu sản xuất cho niên vụ 2019-2020.
Các quốc gia khác như Philippines và Indonesia dù hội nhập ATIGA nhưng vẫn áp dụng các biện pháp quản lý để bảo vệ ngành mía đường của họ. Chính phủ trợ giá, và chỉ cho phép nhập đường tương ứng với sản lượng thiếu hụt trong nước hoặc đường nhập khẩu chỉ được đưa vào thị trường sau khi đã kết thúc vụ ép mía.
Trong bối cảnh nhiều quốc gia trong khối ASEAN đang áp dụng những biện pháp không chính thống, việc Việt Nam áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với luật pháp quốc tế và các quy tắc giao thương của WTO là cần thiết để bảo vệ ngành mía đường trong nước và sinh kế của người nông dân trồng mía.
Với mức thuế chống bán phá giá và chống trợ với đường nhập khẩu từ Thái Lan vừa được ban hành, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, mức thuế này đã có thể giải tỏa tức thời những khó khăn của ngành đường trong nước và cân bằng lợi ích giữa các bên: doanh nghiệp, người tiêu dùng và người nông dân trồng mía. Đồng thời thúc đẩy sự phát triển dài hạn của ngành từ việc ổn định vùng trồng, đảm bảo nguyên liệu chất lượng và vận dụng hiệu quả các nguồn lực của nhà máy.
Triển vọng sáng của ngành đường
Theo Tổ chức Đường Quốc tế (ISO) dự báo thiếu hụt đường trên toàn cầu trong niên vụ 2020/21 sẽ tăng lên 4,8 triệu tấn, nhiều hơn mức 3,5 triệu tấn dự báo trước đây. Sản lượng đường thế giới trong niên vụ 2020/21 (tháng 10 – tháng 9) sẽ ở mức 169 triệu tấn, thấp hơn mức 171,1 triệu tấn dự báo trước đây. Tình hình trong nước cũng không khả quan hơn khi nhu cầu ngày một tăng nhưng sản lượng mía giảm đến mức thấp chưa từng có. Ước tính sản lượng đường từ mía chỉ đạt khoảng 600.000 tấn so với nhu cầu là 2 triệu tấn.
Chính sách thuế chống bán phá giá với đường nhập khẩu từ Thái Lan có thể xem là một trợ lực tốt với các doanh nghiệp ngành đường trong bối cảnh đang có nhiều thuận lợi từ thị trường. Sự sụt giảm về sản lượng đường ở các thị trường lân cận, sự tăng cường nhập khẩu đường nhằm dự trữ lương thực thiết yếu của Trung Quốc và triển vọng xuất khẩu sang EU nhờ hưởng lợi từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU là những cơ hội cho đường Việt Nam trong niên vụ tới.
Tuy nhiên, để phục hồi được sản xuất và nắm bắt cơ hội thị trường, các doanh nghiệp ngành đường phải giải được bài toán thiếu hụt nghiêm trọng nguyên liệu sản xuất do diện tích trồng mía bị thu hẹp mạnh những năm qua. Trao đổi về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Hội, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần mía đường Sơn Dương cho biết: "Hiện nay diện tích vùng mía nguyên liệu của toàn tỉnh Tuyên Quang là 2.600 ha, chỉ bằng 1/4 so với thời kỳ hoàng kim; nếu nhà máy thu mua ổn định với giá 900.000 đồng/kg và có thể cao hơn nữa, đó vẫn chưa phải là cái gốc để giải quyết vấn đề. Bởi hiện nay vùng nguyên liệu còn quá ít. Với diện tích hơn 2.000 ha mía, chỉ đáp ứng cho việc sản xuất trong thời gian hơn 2 tháng cho 1 nhà máy hoạt động."
Chính vì vậy, bên cạnh thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tái cơ cấu vùng trồng, đồng hành cùng nông dân để khôi phục, phát triển vùng nguyên liệu năng suất cao trong dài hạn; việc áp thuế chống bán phá giá thấp hơn cho đường thô đóng vai trò quan trọng để đảm bảo hoạt động sản xuất đường trong nước trong tình thế trước mắt. Thậm chí, mức thuế với đường thô nên ở mức thấp hơn để các doanh nghiệp nước ngoài ưu tiên xuất đường thô vào Việt Nam, đáp ứng đủ nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy hoạt động ổn định, từ đó đảm bảo việc làm cho nhân công, tăng nguồn thu từ các loại thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng,… trong bối cảnh vùng nguyên liệu chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất đường trong nước như hiện nay.
Bên cạnh đó, việc ngăn chặn nạn đường lậu cũng là một bài toán cần sự chung tay và đồng lòng từ các Bộ Ban Ngành liên quan, các doanh nghiệp mía đường nội địa, nông dân, người tiêu dùng,… Có như vậy, ngành đường mới ổn định và phát triển bền vững, người nông dân mới bớt thiệt thòi.
Thực tế cho thấy, việc áp thuế phòng vệ thương mại tạm thời đối với sản phẩm đường mía có xuất xứ từ Thái Lan đã phần nào giúp thị trường cân bằng trở lại. Lượng đường nhập khẩu từ Thái Lan trong năm 2020 xấp xỉ 1,3 triệu tấn, nghĩa là trung bình mỗi tháng ở ngưỡng hơn 100,000 tấn… Con số này đã giảm đến mức đáng kể sau khi các biện pháp bảo hộ chính thức có hiệu lực, từ ngày 15/2 đến 2/3/2021 lượng đường nhập từ Thái Lan chỉ còn 25,000 tấn.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.