Xu hướng này được thể hiện rõ qua kỳ đại hội cổ đông 2014 khi hàng loạt
các ngân hàng xin ý kiến cổ đông mua công ty tài chính làm công ty con.
Mới đây nhất là trường hợp Hội đồng quản trị Ngân hàng Sài Gòn-Hà Nội
(SHB) xin các cổ đông thông qua việc nhận sáp nhập một công ty tài chính
để tái cấu trúc đơn vị này thành công ty con trực thuộc ngân hàng.
Tương tự, trong đại hội cổ đông mới đây, Phó chủ tịch Maritimebank Đào
Trọng Khanh cũng hé lộ khả năng lập công ty tài chính chuyên biệt để
phát triển cho vay tiêu dùng.
Thị trường đang hình thành xu hướng ngân hàng sở hữu công ty tài chính.
Trước đó, vào cuối tháng 10.2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chấp
thuận việc Ngân hàng Phát triển TP.HCM mua lại Công ty tài chính
Việt-Société Générale (SGVF) và đổi tên thành Công ty tài chính HDBank,
vốn điều lệ 550 tỷ đồng, do HDBank sở hữu 100%, hay như vụ hợp nhất giữa
Tổng công ty tài chính PVFC với Ngân hàng Phương Tây...
Chia sẻ về lý do muốn mua lại công ty tài chính, Chủ tịch Đỗ Quang Hiển
cho rằng đây là cơ hội để SHB phát triển mảng dịch vụ ngân hàng phục vụ
tiêu dùng, một trong những dịch vụ có xu hướng phát triển mạnh trong
giai đoạn hiện nay, đem lại nhiều nguồn thu giá trị gia tăng. Hơn nữa,
SHB xây mục tiêu đến 2015 trở thành ngân hàng bán lẻ đa năng và 2020 sẽ
là tập đoàn tài chính. Do đó, từ bây giờ SHB cần chuẩn bị một đội ngũ
chuyên nghiệp về tài chính và đầu tư.
Phó tổng giám đốc của HDBank Lê Thành Trung cũng chia sẻ, việc mua lại
công ty tài chính là để thâm nhập mảng tín dụng tiêu dùng, vốn được đánh
giá còn nhiều dư địa phát triển tại Việt Nam.
Trước làn sóng mới này, một số công ty tài chính "chưa bị nhà băng thâu
tóm" lo ngại khả năng cạnh tranh sẽ không công bằng. Bởi theo quy định,
các công ty tài chính chỉ được thực hiện một số nghiệp vụ cho vay, đầu
tư... thay vì toàn bộ các nghiệp vụ như các ngân hàng thương mại. Điều
này đã hạn chế đáng kể khả năng huy động vốn của những định chế này.
Do đó, lãnh đạo một công ty tài chính tại TP.HCM cho biết, khác
với ngân hàng, họ không được huy động lãi suất 6-8% từ dân cư, nguồn vốn
sử dụng chủ yếu là vay lại từ các nhà băng trong nước và thế giới.
Riêng chi phí huy động vốn đầu vào đã ước chừng trên dưới 20% một năm. Bên cạnh đó, kênh sinh lợi thứ hai của hệ thống tài chính gặp nhiều trắc trở, đó là việc bị giới hạn tỷ lệ đầu tư.
"Nay các ngân hàng mua công ty tài chính, liệu cơ quan chức năng có
giám sát được việc ngân hàng lấy tiền huy động lãi suất thấp rồi cho
công ty tài chính con vay giá rẻ, sau đó công ty con này lại cho khách
vay với giá cao và hưởng chênh lệch lớn", ông băn khoăn.
Trước lo ngại trên, lãnh đạo một ngân hàng đang sở hữu một công ty tài
chính cho rằng sự nhập nhằng ấy khó xảy ra. Vì theo ông, hiện nay Ngân
hàng Nhà nước giám sát khá chặt chẽ vấn đề này. Do đó, ngân hàng mẹ muốn
uỷ thác vốn cho công ty tài chính con cũng phải tuân theo quy định hiện
hành và không có chuyện ưu đãi lãi suất so với các công ty tài chính
bên ngoài.
"Nói chung, tất cả các hoạt động từ khoản thu, chi... của công ty tài
chính trực thuộc ngân hàng đều hạch toán một cách độc lập và không khác
gì so với một công ty tài chính bên ngoài", ông nhấn mạnh.
Điểm khác ở đây theo ông, khi một công ty tài chính là đơn vị trực
thuộc của ngân hàng, sẽ nhận được sự hỗ trợ về mặt công nghệ, cách quản
lý chuyên nghiệp... từ nhà băng. Ngược lại, phía ngân hàng khi mua công
ty tài chính có thể tiếp cận được tất cả các khách hàng tiềm năng từ họ
để phát triển mảng bán lẻ cho nhà băng...
Tiến sĩ Lê Đạt Chí, Trưởng Bộ môn Tài chính, Trường đại học Kinh tế TP.HCM nhận xét, xưa
nay chuyện lãi lớn của các ngân hàng chủ yếu nhờ nghiệp vụ chính là huy
động-cho vay, mà tăng trưởng cho vay hiện nay bị ngưng trệ do mảng tín
dụng doanh nghiệp bị bế tắc. Do đó, nhiều nhà băng đã chuyển hướng sang
khách hàng cá nhân.
"Việc phát triển tài chính cá nhân ở những công ty tài chính lại càng
có nhiều lợi thế hơn, do biên độ lãi suất cho vay lớn hơn, hạn mức tăng
trưởng rộng hơn. Do đó, việc các nhà băng mua lại công ty tài chính có
thể xem như họ đang đón đầu cơ hội", ông Chí nói.
Ngoài mục đích đẩy mạnh cho vay cá nhân, theo ông Chí, các ngân hàng mua công ty tài chính còn nhằm mục đích uỷ thác vốn cho những đơn vị này triển khai các thương vụ đầu tư. Bởi
ngoài chức năng cho vay, các công ty tài chính còn được phép thực hiện
một số hoạt động khác như góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và
các tổ chức tín dụng khác, đầu tư cho các dự án theo hợp đồng, kể cả làm
đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho
các doanh nghiệp.
Ông Chí cũng cho rằng, việc ngân hàng lấn sân sang lĩnh vực tài chính
có thể giúp đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, giúp kích cầu nền kinh tế. Còn
đối với lo ngại ngân hàng sẽ ăn chênh lãi biên cao khi một đầu thì huy
động tiền gửi từ dân khá thấp, đầu kia cho vay ra với lãi suất cao chót
vót, vượt xa lãi suất cho vay thông thường có thể khó tránh khỏi
trên thực tế. Do đó, cần có chính sách quản lý chặt chẽ hơn để hạn chế
vấn đề này.
Ngoài ra, ông Chí cũng cảnh báo về vấn đề nợ xấu đối với các ngân
hàng khi tiếp quản các công ty tài chính. Bởi việc lãi suất cho vay
dạng này tuy cao nhưng bù lại, họ sẽ phải đối mặt với rủi ro khá lớn.
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM cho biết, đến cuối năm
2013, nợ xấu của khối công ty tài chính và cho thuê tài chính cao nhất
hệ thống, lần lượt là 21,96% và 37,53%.
Để hạn chế "vết xe đổ" của các công ty tài chính hoạt động không hiệu
quả, ông Đỗ Quang Hiển cho rằng sẽ lựa chọn một công ty tài chính lành
mạnh, không có nợ khó đòi để tiến hành sáp nhập nhằm đảm bảo quyền lợi
của cổ đông.
Theo kế hoạch của Ngân hàng Nhà nước thì trong năm nay cơ quan này sẽ
tiến hành tái cơ cấu toàn bộ các công ty tài chính để tạo ra các "thể
trạng" hoạt động lành mạnh hơn.
VNE (Theo VNE)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.