Ngày 22.4, Học viên KHXH VN, nơi được cho là "lò đào tạo tiến sĩ" tổ chức họp báo thông tin về những vấn đề dư luận đang quan tâm
Mới đây, thông tin được người dùng Facebook phân tích từ website của Học viện Khoa học Xã hội (thuộc Viện Hàn lâm KHXH VN) đã khiến dư luận xôn xao. Theo đó, thống kê từ đầu năm 2016 đến đầu tháng 4 đã có 58 tiến sĩ bảo vệ thành công, năng suất 1 ngày 1 giờ 15 phút ra một tiến sĩ.
Người này nhận định, nếu cơ sở này cứ duy trì chỉ tiêu 350 học viên như năm 2015 và 2016 thì chẳng mấy chốc “vượt đích cho ra lò dưới một ngày một tiến sĩ”.
Bên cạnh đó, một số đề tài được người dùng Facebook mổ xẻ và nhận xét chưa xứng tầm với luận án tiến sĩ là "đặc điểm giao tiếp với dân của Chủ tịch UBND xã", "Hành vi nịnh trong tiếng Việt", hay "Sự thích ứng với hoạt động dạy học của giáo viên tiểu học mới vào nghề"…
Thậm chí có ý kiến còn cho rằng một số đề tài tến sĩ mà chỉ đáng làm tiểu luận.
Ngày 22.4, các nhà khoa học thuộc Học viện KHXH VN đã lên tiếng giải thích về việc này.
"Đặc điểm giao tiếp với dân của Chủ tịch UBND xã xứng tầm luận án"
PGS. TS Vũ Dũng, Chủ nhiệm ngành Tâm lý học cho rằng đề tài “Đặc điểm giao tiếp với dân của Chủ tịch UBND xã” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất tốt.
“Trong suy nghĩ của nhiều người, luận án tiến sĩ phải hoành tráng nhưng không phải. Đừng nghĩ luận án tiến sĩ là những thứ to tát. Tôi đi 20 nước, đã tới hàng chục trường ĐH, ở các nước phát triển, những vấn đề nghiên cứu hết sức cụ thể. Ví dụ có những đề tài nghiên cứu về hành vi viết chữ trong nhà vệ sinh, nhổ nước bọt ngoài đường… Nếu ở VN sẽ thành vớ vẩn, nhưng ở nước ngoài được đánh giá có tính thực tiễn, văn hóa lớn”.
Một số ý kiến cho rằng đề tài "Đặc điểm giao tiếp với dân của Chủ tịch UBND xã không xứng tầm luận án tiến sĩ, mà chỉ đáng làm đề tài tiểu luận
Theo ông Dũng, nghiên cứu giao tiếp là một trong những vấn đề hết sức quan trọng của con người, không có giao tiếp sẽ không có con người, không có xã hội. Ví dụ một đứa trẻ sống với bầy sói không biết đi, không biết nói, chỉ biết cắn xé. Con người xa môi trường giao tiếp không là con người, không hình thành nhân cách.
“Đề tài giao tiếp của chủ tịch xã với dân một vấn đề rất ít được nghiên cứu, thậm chí đây là đề tài đầu tiên về vấn đề này. Đề tài bổ sung lý luận cho lĩnh vực nghiên cứu tâm lý. Đề tài có tính thực tiễn tốt”, ông Dũng nói.
Chủ nhiệm ngành Tâm lý học dẫn chứng, nước ta có số lượng xã lớn, 11164 đơn vị hành chính cấp xã tính đến tháng 5/2015. Trong đó một số địa phương có số lượng đơn vị cấp xã rất lớn như Thanh Hóa, Hà Nội, Nghệ An…
“Vậy số lượng cán bộ cấp đơn vị, cấp cơ sở lớn như thế có đáng để nghiên cứu không?", ông Dũng đặt câu hỏi.
Ông Dũng giải thích: “Lý do đối tượng nghiên cứu là chủ tịch xã mà không không phải huyện, tỉnh hay trung ương vì cấp xã là cấp chính quyền cuối cùng, gần dân nhất, trực tiếp với dân. Chủ trương đến được với dân hay không là nhờ cấp xã. Chủ tịch xã là một trong 4 cán bộ chủ chốt của xã. Chủ tịch xã có gần dân, hiểu dân hay không phải có giao tiếp với dân”.
“Nịnh trong tiếng Việt nên viết thành sách"
GS. Nguyễn Văn Hiệp, chủ nhiệm khoa ngôn ngữ Học Viện KHXH Việt Nam kiêm Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng đánh giá luận án nghiên cứu “Hành vi nịnh trong tiếng Việt” nhận định đây cũng là đề tài rất tốt.
Ông Hiệp cho biết, ông đang đề nghị người làm luận án này viết thành sách. “Đề tài có tác động thực tiễn lớn đối với xã hội, để ngăn trừ nịnh phải biết và hiểu. Nếu còn ai nghi ngờ chất lượng xin cứ đề nghị Bộ GD ĐT hậu kiểm. Tôi tin Bộ cũng sẽ kết luận là luận văn tốt”.
Theo ông Hiệp, có hàng trăm luận án tiến sĩ trên thế giới làm về hành vi ngôn ngữ với 5 hành vi chính là: Xác tín, cầu khiến, cam kết, tuyên bố, biểu cảm. Hành vi nịnh thuộc nhóm biểu cảm trong hành vi ngôn ngữ. Hành vi này có những đặc trưng riêng cho nhân loại, có những đặc trưng riêng cho văn hóa.
Nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ cần xem xét trong từng bối cảnh cụ thể và có sự so sánh để thấy sự khác biệt.
“Không nên đánh giá nịnh theo nghĩa dung tục theo cách hiểu xã hội. Còn chúng tôi quan sát theo góc độ xã hội học. Hành vi nịnh của người Việt có cái chung và cái riêng góp phần vào ngôn ngữ thế giới. Không nên quy chụp nịnh có gì mà nghiên cứu”, GS Hiệp nói.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.