Nam Giang là huyện miền núi, địa bàn cách trở, dân cư thưa thớt, phần lớn dân cư là người đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống người dân những năm trước hết sức khó khăn. Từ khi triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) đến nay, địa phương này đã có những thay đổi cơ bản, đời sống nhân dân được nâng lên nhờ vào phát triển kinh tế dựa vào 3 cây, 3 con chủ lực.
Xuất phát điểm thấp
Bà Phạm Thị Như - Phó Chủ tịch UBND huyện Nam Giang cho biết, Nam Giang là một trong những huyện nghèo của tỉnh Quảng Nam, có diện tích 184.899ha, dân số hơn 23.000 người (hơn 80% là đồng bào dân tộc thiểu số), gồm 11 xã, thị trấn, trong đó có tới 6 xã biên giới đặc biệt khó khăn...
Diện mạo NTM ở Nam Giang đã thay đổi từng ngày. Trong ảnh: Một góc thị trấn Thạnh Mỹ. Ảnh: Hồng Đoàn
Nam Giang có xuất phát điểm thấp, bởi địa hình phức tạp, giao thông cách trở và đi lại rất khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Việc phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, đời sống đại bộ phận của người dân trong vùng còn những khó khăn.
Từ năm 2011 đến nay, huyện đã tập trung huy động các nguồn lực để đẩy mạnh công tác đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng về đường - trường - trạm… Khi Quảng Nam phát động Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, Nam Giang được tiếp thêm sức mạnh, chính quyền các cấp từ huyện đến xã, thôn đã nhanh chóng thành lập ban chỉ đạo và bắt tay ngay vào triển khai thực hiện chương trình.
Phát triển 3 cây - 3 con
Theo bà Như, để nâng cao đời sống thu nhập cho bà con và giảm nghèo, Huyện ủy, HĐND huyện Nam Giang đã ban hành nhiều nghị quyết, trong đó Nghị quyết 03-NQ/HU của Huyện ủy, Nghị quyết 09.2012/NQ-HĐND về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi trên địa bàn huyện. Huyện xác định 3 cây (cao su, keo, chuối), 3 con (lợn, dê, bò) phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện chăn nuôi và canh tác của bà con miền núi để phát triển kinh tế nhằm tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho bà con.
“Với việc xác định như vậy, UBND huyện đã nhanh chóng triển khai, bố trí, bổ sung kinh phí cho các địa phương để chủ động mua cây, con giống triển khai thực hiện đẩy mạnh sản xuất nông lâm nghiệp. Nhờ đó, việc chuyển dịch mạnh mẽ cây trồng, con vật nuôi theo hướng đã xác định lợi thế từng vùng để cơ cấu 3 cây, 3 con chủ lực vào sản xuất, chăn nuôi theo tinh thần nghị quyết Huyện ủy – HĐND đề ra. Từ đó góp phần đổi mới cách thức trong sản xuất nông lâm nghiệp, từng bước hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa và thị trường tiêu thụ…” - bà Như thông tin thêm.
Ông Phan Minh Tiến – Trưởng phòng NNPTNT huyện Nam Giang cho biết, thời gian qua, ngành nông nghiệp đã tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi để giúp đồng bào thoát nghèo. Chúng tôi xác định, vùng núi – vùng cao không thể phát triển cây lúa nước và cây hoa màu mạnh được, vì không chủ động được nước. Việc phát triển cây lúa để cơ bản đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ chứ thu nhập bà con không tăng, do đó địa phương đã từng bước nghiên cứu để đưa những cây – con phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng của địa phương vào sản xuất. Trong đó, xác định 3 cây là cao su, keo và chuối; 3 con là lợn, dê và bò là chủ lực để đưa vào sản xuất.
Hiện nay, toàn huyện đã có hơn 1.300ha cao su đại điền và tiểu điền, nếu người dân và doanh nghiệp làm tốt thì diện tích cao su đại điền sẽ được trồng nhiều hơn trong thời gian tới và nó sẽ trở thành cây thoát nghèo bền vững của bà con. Ngoài ra, Nam Giang đã xây dựng mô hình trang trại chăn nuôi lợn (lợn rừng thuần) – bò – dê tại 2 xã điểm là Tà Bhing, La Dê, bước đầu đã đem lại hiệu quả. Thời gian tới huyện sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình này ở các xã còn lại.
“Hiện nay, tổng đàn bò có 5.670 con, dê gần 1.000 con và lợn có hơn 7.640 con. Trong đó, để có những con giống tốt, đặc biệt là giống lợn rừng thuần (F1) khỏe mạnh, phòng NNPTNT đã giao nhiệm vụ cho trạm khuyến nông huyện xây dựng khu nhà trại để chăn nuôi, nhân giống cấp cho bà con nhân dân. Hiện nay đàn lợn đang phát triển khá tốt và cung cấp hàng trăm con lợn giống cho bà con. Việc phát triển chăn nuôi theo hướng này rất phù hợp với điều kiện của Nam Giang, trong đó con lợn rừng thuần này rất có giá trị và được xem là đặc sản của miền núi. Do đó, để bà con yên tâm về đầu ra, huyện đã thành lập tổ hợp tác để làm đầu mối thu mua và tiêu thụ sản phẩm cho bà con…” - ông Tiến chia sẻ.
Theo bà Như, với việc chú trọng đến phát triển sản xuất, chăn nuôi mạnh như vậy nên những năm gần đây đời sống của nhân dân trong vùng đã có những thay đổi đáng kể, nhiều hộ gia đình có thêm thu nhập và thoát nghèo bền vững.
Đầu tư hạ tầng cơ sở
Song song với việc đầu tư phát triển sản xuất, chăn nuôi, huyện Nam Giang còn tập trung mạnh nguồn lực để đầu tư cơ sở hạ tầng. Bình quân mỗi năm địa phường này dành hàng chục tỷ đồng để đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu để phục vụ sản xuất và dân sinh. Theo bà Như, để mở đường thoát nghèo cho bà con khu vực vùng núi, vùng biên giới, chủ trương của Nam Giang là tập trung đầu tư hạ tầng thiết yếu, trong đó giao thông nông thôn được ưu tiên hàng đầu. Có đường đi thuận lợi, bà con mới có cơ hội tiếp cận, giao lưu, trao đổi hàng hóa… Đặc biệt, khi giao thông được khơi thông, lúc đó mới có điều kiện vận chuyển vật liệu, phương tiện để đầu tư các công trình thiết yếu khác phục vụ dân sinh.
Chính vì vậy, trong nhiều năm qua, nhất là những năm gần đây khi Nam Giang bắt đầu triển khai xây dựng NTM, Nam Giang chọn 2 xã điểm Tà Bhing và La Dê để làm trước và sau đó là đầu tư 9 xã, thị trấn còn lại. Ngoài các dự án giao thông được đầu tư từ trước, huyện đã tập trung nguồn lực và lồng ghép các nguồn vốn khác của Chương trình 134, 135… để làm đường bê tông nông thôn. Nhờ thế, sau gần 4 năm triển khai thực hiện, đến nay đường liên thôn, liên xã tại 2 địa phương này đạt gần 90%. Ngoài ra, nhiều công trình thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất khác tại các xã khác trên địa bàn cũng được đầu tư đồng bộ. Có đường giao thông đi lại thuận lợi, điện thắp sáng, trường học tốt, trạm y tế chuẩn… bà con rất phấn khởi, đời sống từ đó cũng được nâng lên, diện mạo vùng nông thôn, biên giới ở Nam Giang khởi sắc hơn.
Theo bà Như, có được những kết quả ban đầu trong xây dựng NTM như vậy là một sự cố gắng và nỗ lực rất lớn của chính quyền cũng như người dân địa phương. Vì vậy, trong những năm tới Nam Giang sẽ tiếp tục ưu tiên phát huy nội lực, huy động các nguồn lực – nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn. Nhất là đầu tư hạ tầng về điện – đường – trường – trạm để phục vụ tốt hơn nhu cầu cuộc sống của người dân. Đặc biệt chú trọng hơn để phát triển sản xuất nhằm tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững cho 3 con.
“Nam Giang vẫn còn là huyện nghèo, với hơn 80% dân số là đồng bào, hộ nghèo còn chiếm cao, sản xuất nông nghiệp còn hạn chế, lĩnh vực công nghiệp hầu như không có gìm do đó, việc huy động nguồn lực để đầu tư xây dựng NTM rất khó khăn. Vì vậy, đối với các huyện miền núi và biên giới như Nam Giang thì Chính phủ cần xem xét có những chính sách, cơ chế đặt thù để ưu tiên đầu tư cho các huyện miền núi, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng biên giới. Đồng thời cần tiếp tục điều chỉnh một số tiêu chí như cơ cấu lao động, tỷ lệ hộ nghèo, thu nhập… để phù hợp và sát với thực tế của vùng miền. Có như vậy địa phương mới có điều kiện tiếp tục phát triển, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng NTTM...” - bà Như đề nghị.
Có đường giao thông đi lại thuận lợi, điện thắp sáng, trường học tốt, trạm y tế chuẩn… bà con rất phấn khởi, đời sống từ đó cũng được nâng lên, diện mạo vùng nông thôn, biên giới ở Nam Giang khởi sắc hơn.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.