Ra đại dương săn cá ngừ: Về bến

Chủ nhật, ngày 24/07/2011 07:04 AM (GMT+7)
(Dân Việt) - “Trọn đời làm đá vọng phu - Dõi chồng đi biển mịt mù bão dông”. Tôi nhớ đến câu ca ấy khi nhìn cảnh tàu vừa cập bến, ra đón bác cả Chung là bà vợ bụng đã to vượt mặt.
Bình luận 0

Bác tuổi Dậu, vợ tuổi Tuất, khắc khẩu theo cái hướng vợ luôn đúng. Ba lần vợ sinh, bác đều ở biển, lần này chắc cũng thế...

Nỗi lòng những người vợ

Chuyến đi biển này bác cả Chung mang về cho 4 mẹ con 1,4 triệu đồng, để sống cả tháng và cả kỳ sinh nở sắp tới. Đón chồng, đón cả khách đến chơi mà chị vợ mặt buồn rười rượi. Chị cũng già xọm như chồng. Đời làm vợ ngư dân được mấy ngày vui, suốt đời nơm nớp lo, suốt đời thiếu. Cả khi ông sắm con tàu thì chị cũng không được ngày sung sướng như “bà chủ”.

Đầu tắt, mặt tối lo sắm sửa cho chồng đi biển, đi về lại lo tính toán trả nợ đóng tàu. Chỗ này trả, chỗ kia réo. Rồi biển đói, vẫn phải lo chạy dầu, chạy đá cho chồng ra khơi. Không đi lấy gì trả nợ, mà càng đi càng nặng nợ. Bán thuyền, đã mong ông ấy ở nhà mà rồi ông ấy lại ra biển, thỉnh thoảng về làm … khách trọ ở nhà. Về đôi ngày cho chó không quên hơi chủ, con không quên mặt cha, vợ không quên hơi chồng.

img
Ngư dân tàu PY 90479 đưa cá lên bến.

Vợ anh Giành - “bà chủ tàu” Trương Thị Điệp cũng không hơn gì các bà vợ khác. Hơn một tý là “được” làm bữa cơm mời anh em khi tàu về bến. Ước mong lớn nhất của chị là chồng nghỉ đi biển ở nhà “làm gì cũng được” để chị không phải sợ run lên mỗi khi nghe tin bão, tin “tàu lạ” tấn công...

Mong là thế nhưng cũng có thể rồi sẽ thêm một mối lo, cậu con trai 14 tuổi đợt này có khi phải nghỉ học “nối nghiệp bố”. Ngày xưa anh Giành 15 tuổi cũng bắt đầu đi biển. Anh Giành về đến nhà đã sâm sẩm tối, sáng mai chưa tỏ mặt người lại hấp tấp ra tàu cân cá rồi sửa máy tàu, rồi đóng dầu, đóng đá… chuẩn bị lại đi. Đến bữa cơm liên hoan cũng vào buổi tối, chị Điệp đùa “chẳng nhìn rõ mặt ông ấy”.

Được 4 tối ở nhà là tàu lại ra khơi, cố nhanh thêm 2 chuyến biển nữa phải nghỉ mùa bão. Anh hẹn như Ngưu Lang “sau mưa ngâu tha hồ gặp, cả 3 tháng liền”, lúc ấy lại mong đuổi nhanh “ông khách trọ” ra biển, không ra… cả nhà đói.

Mấy chị vợ ngư phủ mà tôi gặp không thấy ai mơ được giàu có, chỉ mong con đủ ăn và nhất là chồng không phải đi biển. Mong là thế nhưng có dễ đâu được thế, chuyện ăn trong các gia đình ngư dân vẫn là chuyện hàng đầu. Thiếu ăn rồi thất học, rồi con nối nghiệp cha ra biển, không muốn cũng đành chịu. Cũng như cái sự mong chồng đừng phải đi biển vậy, viển vông lắm. Đành ôm con làm kiếp vọng phu, dõi theo chồng trong mịt mù sóng gió.

Cần câu nào cho người câu cá?

Mỗi lần giá xăng dầu lên, cánh báo chí chúng ta lại thắc thỏm “giá xăng dầu lên… ngư dân…”. Rồi cũng ổn thôi, giá cá sẽ chầm chậm nhích lên cho tiệm cận với giá dầu, cũng phải đủ chí phí cho người ta còn nổ máy ra biển chứ. Họ mà nằm bờ thương lái buồn, các cơ sở chế biến buồn, các nhà hàng buồn, dân nhậu cũng buồn… bao thứ buồn.

12 năm trước, tôi theo tàu câu, giá 1kg cá ngừ được 6,8 lít dầu, chuyến này 1kg cá ngừ được 6,1 lít dầu. Giá cá ở cảng so với ở chợ thì cách nhau, như ngư dân nói, “nhiều sải” quá. Đường đi từ cảng đến chợ cũng dài và lắm gian truân, đành rằng thế, nhưng cứ thấy băn khoăn, “miếng bánh” dành cho ngư dân bé quá.

Con tàu của chúng tôi đi và mọi con tàu khác hầu như không có chỗ ngủ, nếu có được nó thì cầm chắc cái lỗ cho chủ tàu, cho bạn thuyền. Để bố có chỗ ngủ tàm tạm trên biển, liệu con có miếng ăn không? Con tàu ốm vật vã lao ra biển khơi, thuyền trưởng Giành có biết không, anh em có biết không? Dĩ nhiên là biết. Sao không sửa sớm hơn đi? Cái đó chúng ta cũng biết, vì cái sự thiếu tiền.

Mỗi lần bão một lần khắc khoải, rồi thương xót cho những mất mát khủng khiếp không đáng có. Chiếc cần câu đầu tiên ngư dân cần, có lẽ là xin những người trên bờ chia thêm phần cho họ trong chiếc bánh chung có từ con cá.

Còn rất nhiều thứ cần cho cộng đồng ngư dân, cộng đồng mà như một người từng đau xót ví: “Phát hiện thêm một dân tộc mới, không ít người, rất nghèo, lạc hậu… sống ven biển, thường gọi là ngư dân”. Các làng chài dọc theo đất nước thường cách những tuyến quốc lộ không xa nhưng mãi vẫn lụp xụp, đầy trẻ con và phụ nữ, luôn khang khác với xã hội bên ngoài.

Sắp về đến bờ, tôi mở ba lô, thấy mấy đồng tiền, bất giác reo “ơ tiền”, rồi tự ngơ ngác với mình. Một tháng không tiêu tiền, một tháng không điện thoại, không báo, không cả trăm thứ. Tự hỏi trên bờ bây giờ thế nào nhỉ?

Anh em trên tàu không có cái ngơ ngác như tôi, họ đã quen cái cảnh sống trên biển, cách ly với bờ từ khi còn nhỏ. Đường ra biển không phải là đường đến trường, học cái nghề đi biển tuần tự từ nấu ăn trên tàu, cứ thế rồi truyền nhau.

Cái động cơ đã thay cánh buồm và mái chèo, những vàng lưới, vàng câu đã thay đổi nhiều, hiện đại hơn, thêm nhiều thứ nhưng anh ngư dân thì hình như vẫn vậy: Gầy, đen, già trước tuổi, một đời với niềm tin rất lành vào Bà, Cậu.

Trong số hàng chục vạn ngư dân sống với biển có mấy người thành chuyên viên nghề cá nhỉ? Cả nước liệu có anh ngư dân nào học lên thành kỹ sư không? Chúng ta liệu có nhà khoa học nào thực thụ ăn sóng, uống gió cùng ngư dân không nhỉ?... Chế độ khuyến học cho con em ngư dân để có lớp ngư dân ngày mai không phải ra biển từ tuổi còn thơ như cha anh, thực sự là chiếc cần câu cho những người câu cá ngày mai trên biển.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem