Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường thăm Nông trường dứa Đồng Giao để bàn cách tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Theo đó, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường sẽ tập trung trả lời chất vấn các nội dung chính, đó là: Giải pháp đột phá và lộ trình thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong thời gian tới; biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, phát triển nông nghiệp bền vững. Công tác bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, quản lý các hoạt động khai thác thủy sản”.
Cụ thể, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường sẽ trả lời tập trung vào 3 nhóm vấn đề:
Nhóm vấn đề thứ nhất: Giải pháp đột phá thực hiện tái cơ cấu lại nông nghiệp
Theo báo cáo của Bộ NNPTNT, thực hiện Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10.6.2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án "Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã và đang tích cực phối hợp với các Bộ ngành, địa phương nỗ lực triển khai thực hiện Đề án này.
Kết quả, sau 4 năm thực hiện Đề án, đã: Cơ cấu sản xuất được điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước, gắn với nhu cầu thị trường. Một số ngành hàng lớn, lợi thế của nước ta đã khẳng định được vị thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, bảo đảm đứng vững khi hội nhập quốc tế. Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu năm 2016 đã thể hiện khá rõ kết quả cơ cấu lại của ngành nông nghiệp: tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường, đó là: thủy sản, rau, hoa, quả nhiệt đới, các loại cây công nghiệp giá trị cao (cà phê, hạt điều, cao su, hạt tiêu), đồ gỗ và lâm đặc sản; giảm các ngành hàng, sản phẩm đang có xu hướng tăng cung (như lúa gạo, thịt lợn) hoặc không khuyến khích phát triển (sắn).
Vì vậy, mặc dù 4 năm qua, sản xuất gặp nhiều khó khăn do thiên tai và biến động bất lợi của thị trường, những tác động của hội nhập quốc tế, nhưng chủ trương cơ cấu lại đã được ngành nông nghiệp tổ chức thực hiện nghiêm túc, quyết liệt và đang tạo được chuyển biến tích cực; góp phần quan trọng vào kết quả tăng trưởng chung của ngành và của cả nước. Tốc độ tăng GDP đạt bình quân 2,46%/năm; giá trị sản xuất tăng 2,73%/năm. Năm 2016, mặc dù ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai và sự cố ô nhiễm môi trường biển nhưng GDP vẫn tăng 1,36%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, giai đoạn 2013-2016 đạt 120,7 tỷ USD, trung bình mỗi năm tăng 1,0 tỷ USD/năm.
Chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện, thu nhập và đời sống của người nông dân được tăng lên (thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng từ 18,6 triệu đồng năm 2012 lên khoảng 29,2 triệu đồng năm 2016).
Trên cơ sở 4 năm (2013-2016) thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, hiện nay, Bộ Nông nghiệp và PTNT đang xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2017-2020, sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cuối tháng 6 năm 2017, làm cơ sở triển khai thực hiện từ năm 2017 và giai đoạn tiếp theo.
Nông dân Đà Lạt trong niềm vui được mùa cà chua trồng theo công nghệ cao nhờ liên kết với Công ty VinEco.
Theo đó, các mục tiêu cụ thể đến 2020 sẽ là:
- Tốc độ tăng GDP toàn ngành đạt tối thiểu 3%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân ngành nông nghiệp đạt trên 3,5%/năm; tỷ trọng lao động nông nghiệp có chứng chỉ đào tạo tăng lên khoảng 22%; tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 40%.
- Thu nhập của cư dân nông thôn tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015, 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; 15.000 hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả; khoảng 1.800 trang trại được công nhận/năm;
- Thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái: giảm phát thải trong sản xuất nông nghiệp; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Trên cơ sở kế hoạch đó, từng cơ quan đơn vị thuộc Bộ, các địa phương phải xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch cụ thể của lĩnh vực và địa phương mình. Hàng năm, Bộ sẽ xây dựng kịch bản tăng trưởng của ngành và xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thực hiện cơ cấu lại.
Công tác tiêu thụ lợn hiện đang gặp khó khăn.
Nhóm vấn đề thứ 2: Biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản, gắn với tiêu thụ sản phẩm, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, phát triển nông nghiệp bền vững.
Để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, hướng đến nền nông nghiệp hiện đại có giá trị gia tăng cao và phát triển bền vững trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, Bộ NNPTNT đã tham mưu trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiều cơ chế, chính sách; đồng thời phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp để cơ cấu lại ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Các nhóm giải pháp chính là:
1. Nhóm giải pháp tổ chức lại sản xuất
- Tiến hành rà soát, đánh giá tình hình thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, sản phẩm, đánh giá nhu cầu thị trường (cả trong nước và quốc tế); điều chỉnh lại quy mô sản xuất phù hợp.
- Tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị khép kín, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt các khâu trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.
2. Nhóm giải pháp về phát triển thị trường
- Phát triển các kênh phân phối bán buôn, bán lẻ để phát triển mạnh thị trường nội địa; tăng cường tuyên truyền, đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các địa phương phải tổ chức quản lý lại hệ thống thương mại quy củ hơn, nhất là lực lượng thương lái để họ thực sự là cánh tay nối dài của các tổ nhóm, hợp tác xã hoặc của doanh nghiệp; khuyến khích thương lái hợp tác với doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia vào chuỗi sản xuất nông sản để đem lại giá trị cao và bền vững hơn.
- Phát triển thị trường xuất khẩu: Tích cực đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu, giữ ổn định các thị trường truyền thống, tìm kiếm và mở rộng các thị trường tiềm năng; hạn chế thấp nhất sự phụ thuộc vào một thị trường nhất định. Cập nhật các thông tin về chính sách thương mại của các đối tác, các thị trường nhập khẩu; phát hiện nhanh và giải quyết kịp thời những rào cản thương mại, kỹ thuật để hỗ trợ tốt nhất cho nông sản xuất khẩu...
- Nâng cao năng lực hệ thống thông tin thị trường, trong nghiên cứu và dự báo cung cầu, qui mô và đặc điểm của từng loại thị trường, cung cấp kịp thời cho các địa phương, doanh nghiệp và người dân điều chỉnh sản xuất phù hợp; tổ chức các hoạt động kết nối cung cầu, kết nối giữa vùng sản xuất với hệ thống phân phối; kết nối giữa thị trường trong nước với quốc tế.
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, các hoạt động hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm, xây dựng thương hiệu nông sản, nhất là đối với các nông sản chủ lực như gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, một số sản phẩm trái cây, sản phẩm thủy sản...
- Phát huy vai trò của Hiệp hội ngành hàng, nắm bắt nhu cầu, khả năng tiêu thụ của thị trường để góp phần điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sản xuất.
3. Về phát triển bền vững: Quyết định 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đã nêu rõ các nhiệm vụ và giải pháp mà ngành nông nghiệp hướng tới và phải tập trung thực hiện bằng được để phát triển bền vững cả về kinh tế - xã hội và môi trường. Toàn ngành nông nghiệp đã và đang tiếp tục thực hiện.
Ngư dân bội thu cá.
Nhóm vấn đề thứ 3: Công tác bảo tồn, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, quản lý các hoạt động khai thác thủy sản.
Kết quả điều tra, đánh giá hiện trạng bước đầu về nguồn lợi thủy sản trên các vùng biển Việt Nam giai đoạn 2010-2016 cho thấy:
- Thành phần loài: đã xác định được 1.207 loài hải sản gồm: 945 loài cá; 135 loài giáp xác; trên 90 loài thủy đặc sản khác.
- Trữ lượng trung bình giai đoạn 2011-2015 của các nhóm nguồn lợi hải sản chủ yếu gồm cá, tôm, cua, ghẹ, mực, bạch tuộc... ở biển Việt Nam ước tính khoảng 4,36 triệu tấn (dao động từ 4,1 đến 4,6 triệu tấn). So với giai đoạn 2000-2005, trữ lượng nguồn lợi hải sản giảm khoảng 14% (trong đó: nhóm hải sản tầng đáy giảm 42%; nhóm cá nổi nhỏ 3,5%; nhóm cá nổi lớn 10,8%).
- Tổng sản lượng khai thác hải sản theo số liệu điều tra khoảng 3,1 triệu tấn.
- Áp lực khai thác lên quần đàn của một số loài hải sản chủ yếu hiện đang ở mức khá cao. Tình trạng khai thác các cá thể chưa đạt thành thục (cá con, mực con, tôm con...) vẫn còn diễn ra.
Nguồn lợi nhóm cá nổi nhỏ, cá ngừ vằn vẫn nằm trong giới hạn cho phép và còn có thể tăng sản lượng khai thác.
Để bảo tồn nguồn lợi thủy sản, Bộ NNPTNT đã, đang và sẽ triển khai một số giải pháp như sau:
Thứ nhất: Tăng cường công tác điều tra, nghiên cứu nguồn lợi hải sản; tập trung thực hiện công tác điều tra, đánh giá nguồn lợi ở các vùng biển, xác định các ngư trường trọng điểm và đối tượng khai thác làm căn cứ để đưa ra định hướng phát triển đội tàu khai thác phù hợp.
Thứ hai: Tập trung sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trong Luật Thủy sản sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba: Tiếp tục thiết lập, kiện toàn hệ thống các khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa.
Thứ tư: Quy hoạch, thiết lập các khu bảo vệ nguồn giống thủy sản và xây dựng các chính sách để triển khai các khu bảo vệ nguồn giống thủy sản hiệu quả.
Thứ năm: Thiết lập vùng cấm, hạn chế khai thác để bảo vệ các bãi đẻ, bãi giống tự nhiên.
Thứ sáu: Thực hiện công tác tái tạo nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản một cách hiệu quả; khôi phục các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn đang bị suy thoái, trước mắt tập trung vào dự án khôi phục các hệ sinh thái tại 4 tỉnh miền Trung.
Thứ bảy: Rà soát các quy định, chế tài xử lý vi phạm đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm, kịp thời các hoạt động khai thác thủy sản vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hoạt động khai thác mang tính hủy diệt (xung điện, chất nổ), sử dụng các ngư cụ cấm khai thác.
Thứ tám: Đẩy mạnh truyền thông tới cộng đồng về công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường, chống khai thác bất hợp pháp…
Thứ chín: Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.