5 người đã cứu được nhiều mạng sống nhất trên thế giới gồm những ai?
5 người đã cứu được nhiều mạng sống nhất trên thế giới, gồm những ai?
Thứ hai, ngày 19/08/2024 16:32 PM (GMT+7)
Kể từ khi bắt đầu lịch sử được ghi lại, bệnh tật và dịch bệnh luôn đồng hành cùng sự tiến bộ của con người và đe dọa sức khỏe con người. Nhiều bệnh truyền nhiễm nổi tiếng, chẳng hạn như bệnh đậu mùa và Cái chết đen quét qua châu Âu vào thời Trung cổ, đã đe dọa tính mạng của toàn nhân loại.
Để chống lại những căn bệnh này, các nhà khoa học đã dành vô số công sức để đạt được những thành tựu y học như ngày nay. Trên tượng đài y học này có một số cái tên sẽ luôn tỏa sáng rực rỡ.
Bệnh bại liệt - Jonas Salk
Trước khi tìm hiểu về Jonas, chúng ta cần hiểu bệnh bại liệt là gì. Bệnh bại liệt là một trong những căn bệnh gây ra mối đe dọa lớn nhất cho nhân loại sau chiến tranh.
Trong đại dịch năm 1952 ở Mỹ có 58.000 ca mắc, 3.145 người chết và 21.269 người tàn tật. Phần lớn nạn nhân là trẻ em. Điều đáng sợ nhất của bệnh bại liệt là ở giai đoạn đầu bệnh hầu như không có triệu chứng gì, chỉ đau họng, sổ mũi, sốt… tương tự như cảm lạnh.
Vì vậy, nhiều bậc cha mẹ lầm tưởng rằng con mình chỉ bị cảm lạnh. Ở giai đoạn sau, khi được phát hiện, thường không có cách nào cứu được trẻ, trẻ chỉ có thể bị liệt hoặc thậm chí tử vong. Jonas Salk sinh năm 1914, là nhà khoa học y học thực nghiệm và virus học nổi tiếng người Mỹ.
Năm 1947, Jonas Salk bắt đầu phát triển vắc-xin bại liệt. Vào thời điểm đó, ý tưởng chủ đạo trong việc phát triển vắc xin là cho phép vi rút sống xâm nhập vào cơ thể con người để con người có thể tạo ra kháng thể. Jonas Salk đã mạnh dạn đề xuất loại bỏ hoạt động của virus trong khi vẫn giữ được khả năng kích hoạt phản ứng miễn dịch của con người. Kiên trì với quan niệm này, ông đã sử dụng vô số thí nghiệm để cuối cùng phát triển được một loại vắc xin và thử nghiệm trên hàng nghìn con khỉ. Cuối cùng, loại vắc xin bại liệt đã cứu sống vô số trẻ em đã ra đời. Jonas vị tha thậm chí còn từ chối cấp bằng sáng chế cho vắc xin, để phát minh của mình cứu được trẻ em trên khắp thế giới.
Bệnh đậu mùa - Mary Montagu
Bệnh đậu mùa cũng là một loại virus có tác động sâu sắc đến nhân loại trong lịch sử loài người. Tỷ lệ tử vong của nó từng lên tới 30% đến 35%. Hơn nữa, những người mắc bệnh đậu mùa sẽ để lại sẹo ngay cả khi họ khỏi bệnh. Con người đã từng bất lực trước loại virus này.
Mãi cho đến khi bác sĩ người Anh Edward Jenner phát minh ra vắc-xin đậu mùa đậu bò vào năm 1796, nhân loại cuối cùng cũng có được vũ khí chống lại bệnh đậu mùa.
Nhưng trước đó, Lady Mary Wortley Montagu - một phụ nữ quý tộc Anh, đóng một vai trò quan trọng trong việc giới thiệu và thúc đẩy việc tiêm chủng bệnh đậu mùa, còn được gọi là biến thể, đến xứ sở sương mù vào đầu thế kỷ 18.
Lady Mary Montagu sinh ra trong một gia đình quý tộc Anh vào năm 1689. Có năng khiếu khi còn nhỏ, cô đã tự học dưới sự hướng dẫn của Giám mục Bunet và bộ sưu tập sách phong phú của cha cô. Khi lớn lên, cô trở thành một người phụ nữ rất sắc sảo và táo bạo.
Kinh nghiệm tiêm phòng bệnh đậu mùa của cô bắt đầu khi cô cùng chồng đi du lịch Thổ Nhĩ Kỳ. Cô nhìn thấy phương pháp tiêm phòng bệnh đậu mùa ở địa phương. Sau khi quan sát và thử nghiệm, cô tin chắc rằng đây là phương pháp có thể cứu được phần lớn nhân loại nên đã mang phương pháp này trở lại Anh.
Tuy nhiên, quá trình thăng tiến không hề suôn sẻ và vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng y tế và nhà thờ địa phương.
Sau đó, sau khi thử nghiệm thành công trên một số tù nhân và trẻ mồ côi, vắc xin variola đã được quảng bá thành công.
Cha đẻ của vắc xin hiện đại - Maurice Hilleman
Maurice Hilleman qua đời vì bệnh ung thư tại Bệnh viện Chestnut Hill ở Philadelphia năm 2005, chấm dứt cuộc đời huy hoàng của ông. Trong suốt cuộc đời của mình, Maurice Hilleman đã phát triển hơn 40 loại vắc xin , bao gồm vắc xin quai bị, vắc xin thủy đậu, vắc xin viêm gan A và viêm gan B... Loại vắc-xin do ông phát triển có thể đã cứu được nhiều mạng sống hơn bất kỳ bác sĩ nào khác trên thế giới.
Morris sinh ra tại một trang trại ở Montana, Mỹ. Mẹ anh mất khi anh còn rất nhỏ, anh và các anh chị em được họ hàng nuôi dưỡng. Morris đam mê khoa học từ khi còn nhỏ nhưng do hoàn cảnh gia đình nghèo nên ông đã bỏ học cấp 3. Nhưng anh trai anh muốn Maurice đi học đại học. Sau khi vào đại học, ông yêu thích khoa học từ khi còn nhỏ và nhận được học bổng của Đại học bang Montana và học bổng sau đại học của Đại học Chicago. Trong bài báo của mình, lần đầu tiên ông đề xuất một phương pháp xác định các chủng chlamydia khác nhau.
Sau khi tốt nghiệp, anh nhận được công việc đầu tiên tại Bristol-Myers Squibb & Sons và phát triển loại vắc xin đầu tiên trong đời, giúp bảo vệ vô số binh lính Mỹ khỏi bị nhiễm vi rút viêm gan B Nhật Bản. Kể từ đó, ông bắt tay vào con đường phát triển vắc xin. Khi dịch cúm bùng phát ở Hồng Kông vào năm 1957, ông đã nhận thức sâu sắc rằng đây là một loại cúm mới, từ đó thực hiện các biện pháp quyết liệt là cung cấp mẫu vi rút cho các nhà sản xuất vắc xin, giúp kiểm soát số ca tử vong do cúm ở Hoa Kỳ lên tới 69.000 người. . Năm đó, ông gia nhập Merck và phát triển lô vắc xin bại liệt đầu tiên . Tuy nhiên, loại vắc xin này có thể gây ung thư cho động vật và Merck không còn tin tưởng ông nữa. Sau đó, ông chuyển sang một trang trại và yêu cầu sử dụng gà để phát triển vắc xin sởi. Cuối cùng, ông đã đạt được thành công lớn và cứu được vô số mạng sống, bao gồm cả việc phát triển vắc xin quai bị cấp tính. Anh ấy đã chiến đấu để bảo vệ sức khỏe con người.
Ho gà - Leila
Leila Đan Mạch sinh ra ở Atlanta (Mỹ) vào năm 1898. Bà nghỉ hưu năm 2001 và qua đời năm 2012, thọ 114 tuổi.
Năm 1924, Leila được nhận vào trường Cao đẳng Y tế Georgia và tốt nghiệp với tư cách là nữ sinh viên y khoa duy nhất tốt nghiệp trong lớp. Sau khi tốt nghiệp, Laila làm bác sĩ nhi khoa ở quê nhà. Năm 1932, một trận dịch ho gà bất ngờ tấn công Atlanta. Là một bác sĩ nhi khoa, cô muốn phát triển một loại vắc-xin để ngăn ngừa căn bệnh này.
Sau 6 năm nghiên cứu, cô đã xuất bản một bài báo và hợp tác với Đại học Emory và Eli Lilly để phát triển vắc xin ho gà. Sau đó, các nhà khoa học khác đã kết hợp vắc xin bạch hầu, vắc xin ho gà và giải độc uốn ván để tạo ra vắc xin DPT. Kể từ đó, vô số trẻ em đã thoát khỏi cơn đau ho gà.
Bà hành nghề y gần như suốt cuộc đời cho đến khi phải nghỉ hưu ở tuổi 103 do thị lực suy giảm. Cuối cùng, bà qua đời ở tuổi 114, trở thành bác sĩ già nhất thế giới.
Bệnh bạch hầu - Gaston Raymond
Cho dù đó là giải Nobel hay giải Oscar, hàng năm người ta đều thấy một số vận động viên chạy giỏi nhất. Và Gaston Raymond chính là một người như vậy, được mệnh danh là vận động viên chạy mạnh nhất trong lịch sử giải Nobel.
Theo thống kê, ông đã được đề cử 155 lần nhưng lần nào cũng trượt giải Nobel. Gaston là một nhà vi trùng học nổi tiếng người Pháp được nhớ đến nhiều nhất vì những đóng góp của ông trong việc phát triển vắc xin phòng bệnh bạch hầu.
Bệnh bạch hầu là một căn bệnh cổ xưa chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Mãi cho đến khi học trò của Pasteur là Emile Roux phát hiện ra độc tố bệnh bạch hầu thì việc phát triển vắc xin phòng bệnh bạch hầu mới được thực hiện. Năm 1890, bác sĩ quân y người Đức Behring và nhà vi khuẩn học người Nhật Shibasaburo Kitasato đã chữa khỏi thành công cho một bệnh nhân mắc bệnh bạch hầu bằng huyết thanh kháng độc tố bạch hầu.
Năm 1920, Raymond đã phát minh ra phương pháp sử dụng formalin để vô hiệu hóa độc tính của virus bạch hầu nhằm tạo ra vắc xin giảm độc lực có thể tạo ra phản ứng miễn dịch ở người. Phương pháp này mang lại một phương pháp phát triển vắc xin đơn giản và hiệu quả. Trước khi vắc xin ra đời, bệnh bạch hầu luôn là đám mây đen bao trùm nhân loại. Vì vậy, khi Gaston phát minh ra vắc xin phòng bệnh bạch hầu vào năm 1920, chắc chắn nó đã mở ra một khoảng trống trong đám mây đen này và mang lại cho mọi người niềm hy vọng.
Mặc dù Raymond chưa bao giờ đoạt giải Nobel trong đời nhưng đóng góp của ông chắc chắn rất đáng được ghi nhớ.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.