Cuộc thánh chiến Hồi giáo chống triều đình Huế diễn ra như thế nào?
Cuộc thánh chiến Hồi giáo chống triều đình Huế diễn ra như thế nào?
S.T
Thứ năm, ngày 02/03/2023 19:37 PM (GMT+7)
Tham vọng thành lập vương quốc Champa Hồi giáo, Katip Sumat ra lệnh thủ tiêu tất cả chức sắc người Chăm theo Hindu giáo chống lại phong trào của mình. Triều đình Huế không ngờ và cũng không chuẩn bị cho cuộc vùng dậy của Katip Sumat.
Những biện pháp nghiêm ngặt nhằm xây dựng lại uy quyền của vua Minh Mạng sau ngày từ trần của Lê Văn Duyệt vào năm 1832 và cách cư xử của một số quan lại của triều đình Huế nắm quyền cai trị ở Gia Định Thành đã gây ra những cuộc khởi nghĩa ở miền Nam. Theo biên niên sử Việt Nam, ngày 8 tháng 5 năm Qúy Tỵ (1833) Lê Văn Khôi là con nuôi của Lê Văn Duyệt, xin phép ra khỏi trại giam để cúng giỗ thân phụ của mình. Lợi dụng cơ hội này, Lê Văn Khôi tập trung những đồng đội trung thành vùng dậy tấn công những cơ sở của triều đình Huế ở miền Nam, giải phóng tù binh, sau đó xua quân tấn công thành Gia Định.
Chỉ trong vòng một tháng, Lê Văn Khôi làm chủ 6 tỉnh miền nam và tự phong cho mình là Bình Nam Đại Nguyên Soái vào ngày 22 tháng 5 năm Quí Tị (1833). Sự vùng dậy của Lê Văn Khôi ở Gia Định Thành đã đưa đất nước Việt Nam vào con đường nội chiến, kéo theo cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương ở Ninh Bình và Hưng Hóa, của Nùng Văn Vân (anh rể Lê Văn Khôi) ở khu vực Bắc Việt.
Cũng vào thời điểm đó, biên niên sử Chăm nêu ra cuộc vùng dậy của Katip Sumat nhằm giải phóng người Chăm ra khỏi sự kiểm soát của triều đình Huế.
Buổi ban đầu của phong trào Katip Sumat Katip
Sumat hay Katip Tamat tùy theo dị bản là vị tu sĩ Chăm Hồi Giáo sinh ở Campuchia, đã từng sang Makah (tiểu vương quốc Kelantan, Mã Lai) du học về triết lý Hồi Giáo. Nghe tin vương quốc Champa bị nhà Nguyễn xóa bỏ trên bản đồ vào năm 1832, Katip Sumat rời Makah (Kelantan, Mã Lai) trở về Campuchia. Sau khi bàn luận với các môn đệ Hồi Giáo, Katip Sumat chỉ huy một đoàn quân đa số là người Chăm và Mã Lai sinh sống ở Campuchia sang đất Champa cũ để hình thành một phong trào đấu tranh chống triều đình Huế vào năm 1833.
Đối với cộng đồng Chăm Hồi giáo, Katip Sumat là bậc tu sĩ Hồi Giáo được xem như một vị thánh siêu hình, di chuyển từ nơi này sang nơi khác mà người Chăm không thấy dấu chân. Vừa đặt chân lên lãnh thổ Champa, Katip Sumat thu hút được sự yểm trợ của nhiều quan lại Champa từng phục vụ trong triều đình của cựu vương Champa Po Phaok The. Po Phaok The là một người rất thân cận với Lê Văn Khôi, mặc dù biên niên sử Chăm cho rằng cuộc vùng dậy của Katip Sumat không liên quan gì đến cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi ở miền Nam.
Nhằm chuẩn bị chu đáo cho cuộc nổi dậy, Katip Sumat quyết định giữ bí mật về sự hiện diện của ông ở Champa cho đến ngày khởi nghĩa bùng nổ. Tuy nhiên, một quan lại gốc Chăm Bà La Môn tên là Po Kabait Thuac, vì quá sợ những cuộc trừng phạt sau này, báo cáo với triều đình Huế về mưu đồ nổi dậy của dân tộc Chăm. Thế là vua Minh Mạng ra lệnh bắt tất cả người Chăm có âm mưu chứa chấp Katip Sumat. Sau khi điều tra lại, triều đình Huế quyết định thả những người Chăm bị bắt vì không có bằng chứng và kết tội tử hình Po Kabait Thuac về tội phỉ báng người khác. Điều này đã chứng minh rằng triều đình Huế không nắm vững tình hình và không nhận được tin tức chính xác về những dao động xã hội – chính trị tại Champa vào thời điểm đó.
Sự ra đời của chủ thuyết “thánh chiến Hồi Giáo”
Trước hành động của Po Kabait Thuac, Katip Sumat rất phẫn nộ và tuyên bố rằng “một số người Chăm là những kẻ gian manh muốn trục xuất ông”. Chính vì thế, ông không muốn tiếp tục đấu tranh nữa, sợ gây ra liên lụy cho tầng lớp tu sĩ người Chăm. Nhưng đa số thành viên tìm cách thuyết phục Katip Sumat phải tiếp tục lãnh đạo phong trào. Katip Sumat chấp nhận lời yêu cầu với điều kiện là mặt trận đấu tranh này phải đặt dưới màu cờ Hồi Giáo.
Ðể thực hiện mục tiêu, Katip Sumat tập trung tất cả những quan lại và binh lính trên hòn núi Aih Amrak (Con Công) ở Ðồng Nai, mà Katip Sumat xem như trung tâm chỉ đạo, điều hành và phổ biến lý thuyết Hồi Giáo. Sau đó Katip Sumat gửi những người truyền đạo đi khắp vùng Raglai và Churu (Tây Nguyên) nhằm yêu cầu các đạo hữu và binh lính phải tin tưởng tuyệt đối vào giáo lý Hồi Giáo và Đấng Allah. Katip Sumat còn ra lệnh thủ tiêu tất cả những chức sắc Chăm Bà ni theo Hindu giáo chống lại phong trào truyền bá Hồi Giáo mà ông đã đưa ra.
Theo biên niên sử Chăm, mục tiêu của Katip Sumat là giải phóng Champa ra khỏi sự kiếm soát của Việt Nam. Muốn tiến đến mục tiêu, Katip Sumat dùng triết lý Hồi Giáo làm khung cho chủ thuyết đấu tranh mà ông chưa thự hiện được tại Campuchia. Kể từ đó, Katip Sumat sáng tạo ra một quan niệm đấu tranh hoàn toàn mới lạ trên bán đảo Ðông Dương, đó là hình thành mặt trận “thánh chiến Hồi Giáo” (Jihad) chống lại triều đình Huế.
Sau khi từ chối yêu cầu quy hàng mà vua Minh Mạng đã đưa ra nhiều lần, Katip Sumat giao cho Tuan Lik quyền chỉ huy vùng Phan Rí, cho Kuac Riwa quyền chỉ huy vùng Long Hương và cho Katip Ja Thak Wa quyền chỉ huy vùng Phan Rang, phất cờ mang dòng chữ “Po Rasak” và ra lệnh cho binh lính vùng dậy tấn công căn cứ quân sự của triều đình Huế ở đất Champa. Cuộc nổi dậy của Katip Sumat gây mối đe dọa thật sự cho triều đình Huế, buộc vua Minh Mạng phải gởi một đội binh hùng mạnh hơn 1000 người và ra lệnh vũ trang những cư dân Việt thuộc phủ Bình Thuận để họ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống quân nổi loạn.
Đoàn quân Katip Sumat tập trung những người Chăm, Raglai và Churu, luôn luôn tin tưởng vào Đấng Allah sẽ phù hộ cho sự chiến thắng, hăng say vùng dậy chống lại triều đình Huế. Tuy nhiên, cuộc vùng dậy của Katip Sumat thiếu sự chuẩn bị chu đáo và do quá tin vào Đấng Allah để bảo vệ tính mạng cho binh sĩ mà Katip Sumat đã hứa hẹn, đội quân của ông bị tan rã nhanh chóng. Trước lực lượng hùng mạnh của vua Minh Mạng, Katip Sumat buộc phải lui về miền núi nằm ở phía Tây và ra lệnh cho quân lính Chăm tiếp tục đương đầu với triều đình Huế ở đồng bằng, nhưng không gặt hái kết quả gì.
Chính sách ngăn chặn sự bành trướng Hồi Giáo
Có tể thấy rằng, sau khi vương quốc của mình bị tan rã, người Chăm chỉ còn biết trông cậy vào Katip Sumat hướng dẫn họ vào niềm tin của Hồi Giáo, một tín ngưỡng du nhập từ bên ngoài, rất gần gũi với hiện tượng của Thiên Chúa Giáo mà vua Minh Mạng đang tìm cách ngân cấm. Đó chính là nguyên nhân buộc triều đình Huế phải thay đổi chính sách đối với người Chăm.
Nhằm ngăn chặn phong trào của Katip Sumat, Minh Mạng tìm cách xoa dịu người Chăm bằng cách xóa bỏ chính sách đồng hóa các dân tộc này để tập trung mọi nỗ lực chống lại sự bành trướng của Hồi Giáo – thứ tôn giáo đang khiến người Chăm “đọc kinh cầu nguyện bằng một tiếng lạ lùng (ám chỉ tiếng Á Rập), tin tưởng tất cả thần thánh và chấp chứa cả ma quỉ trong nhà của họ”.
Ai cũng biết, Minh Mạng là vị quốc vương rất tôn sùng giá trị Văn hóa của dân tộc Việt và không bao giờ chấp nhận một tôn giáo ngoại lai nào du nhập vào lãnh thổ Việt Nam. Chính sách đàn áp thẳng tay các nhà truyền giáo nước ngoài tìm cách bành trướng Thiên Chúa Giáo trên lãnh thổ Việt Nam là thí dụ điển hình. Kể từ đó, cuộc khởi nghĩa của người Chăm dựa vào chủ thuyết Hồi Giáo du nhập từ bên ngoài và đặt dưới quyền chỉ đạo của một chức sắc Hồi Giáo nước ngoài có thể gây ra những mối nguy cơ mà vua Minh Mạng phải dập tan bằng mọi cách, càng sớm càng tốt.
Vào thời điểm đó, có một số quan lại Việt Nam nghi ngờ rằng Katip Sumat đang dựa vào ảnh hưởng của cựu quốc vương Champa là Po Phaok The bị giam giữ ở Huế, để bành trướng Hồi Giáo trên lãnh thổ Việt Nam. Họ đứng ra kêu gọi triều đình Huế tìm cách tách rời Po Phaok The ra khỏi phong trào này. Nhưng sự thật không phải như thế.
Theo biên niên sử Việt Nam, năm 1833, Po Phaok The chấp nhận chính sách “cải tổ quy lưu” của triều đình Huế trên toàn lãnh thổ Champa cũ. Triều đình Huế cũng ra điều kiện rằng nếu Po Phaok The có mối liên hệ gián tiếp hay trực tiếp với phong trào Katip Sumat thì cựu quốc vương này phải cắt đứt ngay lập tức.
Qua các cuộc trao đổi, Po Phaok The có ý đồ quy hàng với triều đình Huế. Kể từ đó, Minh Mạng đề nghị phong cho Po Phaok The chức Diên An Bá (Bá Tước Diên Ân) vào tháng 6 năm Qúy Tỵ (1833), hứa sẽ xây dựng tại Huế một đền tưởng niệm các vị vua Champa, phục hồi lại một số đền tháp của vương quốc này và giao cho Po Phaok The quyền thu thuế trong nhiều làng mạc của người Chăm.
Nếu Po Phaok The là người trung thành với tổ chức của Katip Sumat, thì vua Minh Mạng không bao giờ ban cho nhiều ân sủng như thế. Có chăng triều đình Huế nghi rằng cuộc vùng dậy của Katip Sumat vào năm 1833 có mối liên hệ trực tiếp với Lê Văn Khôi ở Gia Định để rồi tìm cách lôi kéo Po Phaok The trở về phục tùng cho triều đình Huế hầu ngăn chặn ảnh hưởng của quốc vương này, vì sự liên minh giữa Katip Sumat, thành phần quan lại trung thành với Po Phaok The tại địa phương và Lê Văn Khôi có thể gây ra bao mối nguy hiểm cho triều đình Huế và cho chính sách thống nhất đất nước Việt Nam.
Mặc dù người ta không biết thế nào về thái độ của Po Phaok The đối với triều đình Huế, nhưng sau ngày đề nghị của vua Minh Mạng, biên niên sử Chăm cho rằng Po Phaok The chỉ là nhân vật làm bình phong, không đóng vai trò quan trọng trong tổ chức đấu tranh của Katip Sumat. Kể từ đó, vua Minh Mạng ra lệnh dập tắt nhanh chóng cuộc nổi dậy này. Và kết quả cũng đến không lâu vì những người Chăm, Churu, Raglai tham gia vào cuộc “Thánh Chiến Hồi Giáo” chống lại triều đình Huế chỉ tin vào Đấng Allah và uy quyền mầu nhiệm của Katip Sumat hơn là xây dựng một tiềm năng quân sự khả dĩ để đương đầu với lự lượng hùng mạnh của triều đình Huế.
Chính vì vậy mà phong trào Hồi Giáo của Katip Sumat đã bị dập tắt vào tháng 7 năm Tỵ lịch Chăm, tức là cuối năm 1833 hay đầu năm 1834.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.