Nguyễn Triêm quê ở xã Phú Hoa huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây, nay là thôn Phú Đa, xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Ông đi thi ngạch võ, đỗ Tạo sĩ (tương đương như Tiến sĩ văn), được bổ giữ chức quan Thủ hiệu đội Nhưng nhất, là đội đứng thứ nhất gồm 60 suất ưu binh trong các đội bộ binh thị hậu và được phong tước Triêm Vũ hầu.
Từ loạn kiêu binh
Tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), sau khi chúa Trịnh Sâm mất, thấy Thế tử Trịnh Cán còn nhỏ lại ốm đau bệnh tật, quân lính Tam phủ đã phò vương tử Trịnh Tông (còn có tên là Trịnh Khải) lên ngôi chúa, rồi làm triều chính rối ren, sử gọi là loạn kiêu binh.
Lính tam phủ vốn là lính được tuyển từ ba phủ Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia thuộc hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, các địa phương từng góp quân giúp nhà Lê trung hưng diệt nhà Mạc. Từ khi vua Lê, chúa Trịnh giành lại được Thăng Long, đều thường tin dùng lính ba phủ này làm quân túc vệ. Do có công lao, lại được vua chúa nuông chiều, nên họ sinh ra thói kiêu căng, xem thường luật vua phép nước.
Tháng Hai năm Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 đời vua Lê Hiển Tông (1784), kiêu binh Tam phủ lại nổi loạn lần nữa. Lần này do sự việc chúa Trịnh Tông nghi ngờ sai bắt số đông kiêu binh đang tụ tập uống rượu ở sân điện Vạn Thọ trong cung do vua Lê Hiển Tông ban cho.
Theo kế của Tham tụng Nguyễn Khản và Quyền phủ sự Dương Khuông (em ruột của Dương Thái phi, mẹ chúa Trịnh Tông), Nguyễn Triêm được lệnh đem quân lính hiệu Phong Lôi đến bao vây chỗ quân kiêu binh đang tụ họp ăn uống, bắt được 7 người giải về phủ đường trị tội. Ngày 15 tháng Hai, bảy người bị khép vào tội loạn binh và đều bị xử tử.
Được tin ấy, quân lính Tam phủ sôi sục căm phẫn, kéo nhau đến vây bắt Nguyễn Khản, Dương Khuông và Nguyễn Triêm. Nhưng Nguyễn Khản đã nhanh chân kịp chạy đi Sơn Tây, lên chỗ em trai ông là Nguyễn Điều đang làm Trấn thủ. Nguyễn Triêm và Dương Khuông thì chạy vào trong phủ chúa. Quân Tam phủ bèn lệnh cho phá sạch cả dinh của 3 người.
Đến cái chết bi tráng
Biết tin Dương Khuông và Nguyễn Triêm ẩn náu ở trong phủ, quân Tam phủ chia quân chặn giữ cửa phủ, còn số đông thì kéo nhau xông vào trong phủ đường, yêu cầu chúa Trịnh Tông phải nộp người ra cho họ xét xử. Chúa Trịnh Tông bị ép vào thế bức bách, nhờ có thái phi Dương Thị van lạy, lại đem tiền bạc hối lộ nên kiêu binh mới tha cho Dương Khuông, còn buộc lòng phải giao Nguyễn Triêm.
Bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái miêu tả cái chết của Nguyễn Triêm rất chi tiết và xúc động:
Chúa sau khi xin tha cho Quốc cữu Dương Khuông, xin tha cả cho Nguyễn Triêm thì quân lính nói:
- Nhà chúa nếu còn quanh co che chở cho Triêm Vũ hầu; bọn tôi khi "máu đã nhập tim" (do câu tục ngữ: "Máu nhập tim, nhà lim cũng nhỏ"), thì ngay cả quốc cữu cũng không tha nữa!
Nguyên hôm trước Triêm Vũ hầu trốn vào phủ chúa, lẩn ở trên gác Kỳ Lân, vẫn dùng đôi kiếm để giữ mình. Trong lúc bọn quân lính đòi giết, Triêm Vũ hầu bụng bảo dạ: "Nếu chúng không nghe nhà chúa điều đình, mà cứ xông vào bắt ta, thì phải đứng trên thang chém lấy dăm ba cái đầu của bọn chúng, chứ ta không chịu chết một mình!".
Đến lúc này việc đã gấp quá, chúa bèn sai người đến dỗ Triêm Vũ hầu rằng: "Bây giờ xã tắc nguy nan như treo trên sợi tóc, nhà chúa không thể cố giấu tướng quân được nữa. Vậy xin tướng quân hãy vì chúa chớ tiếc cái chết, để cho nhà chúa được yên. Đó là công muôn đời của tướng quân!"
Triêm Vũ hầu bất đắc dĩ phải trèo thang xuống ra mắt chúa mà nói:
- Chết thì chết, thần xin hai tay hai kiếm tung hoành với chúng nó một trận, giết gọn lấy vài trăm đứa, cho hả bớt cơn giận của nhà chúa!
Chúa nói:
- Như thế chỉ làm cho thái phi kinh sợ, mà quả nhân cũng chẳng được yên nào!
Triêm Vũ hầu quẳng hai thanh gươm xuống đất nói:
- Bó tay mà chịu như thế, thần đành chết uổng vậy!
Chúa khóc mà từ biệt Triêm Vũ hầu. Rồi lại hứa với Triêm Vũ hầu rằng, sau khi ông chết, sẽ cấp cho một ngàn khoảnh ruộng làm của nối đời và phong cho làm phúc thần, bắt dân mười làng thờ cúng.
Triêm Vũ hầu đáp:
- Thần chỉ vì chúa mà chết, đâu phải cầu mong tước lộc? Xin chúa hãy ra sức tăng thêm uy quyền, xoay loạn làm trị, thì thần dẫu chết, xương vẫn không mục nát!
Chúa bèn tự tay viết sáu chữ: "Trung nghĩa tráng liệt đại vương" đưa cho Triêm Vũ hầu. Triêm Vũ hầu quì xuống nhận mảnh giấy đó, vê tròn, nuốt vào bụng, rồi lạy tạ chúa mà đi ra. Khi qua điếm Tiểu Bút, Triêm Vũ hầu bị đám kiêu binh lôi kéo và hỏi:
- Gươm sắc của mày bây giờ như thế nào?
Triêm Vũ hầu đáp:
- Tao không thể dùng thanh gươm đó chém đầu chúng bay là theo mệnh chúa và vì xã tắc đó thôi. Nhưng mà, chẳng lâu gì đâu, tao chết rồi, sẽ có người khác đến chặt đầu lũ chúng bay. Đến lúc ấy, chúng bay sẽ biết gươm có sắc hay không!
Quân lính xúm vào toan đánh Triêm Vũ hầu, ông cản lại mà rằng:
- Đây là nơi nghiêm cấm, không được hành hung. Hãy để tao ra khỏi cửa phủ, ngồi yên đâu đấy, rồi tha hồ cho chúng bay muốn làm gì tao thì làm.
Đoạn ông bước khoan thai đến bên cạnh cầu đá, tìm chỗ, ung dung ngồi xuống và bảo bọn quân lính:
- Nào, bây giờ chúng bay làm gì tao thì làm đi!
Đám kiêu binh lấy gạch đá đập mãi vào đầu Triêm Vũ hầu khiến máu chảy đầy mặt. Nhưng ông vẫn ngồi yên không cựa, khẽ lấy tay áo lau mặt, rồi vừa cười vừa nói:
- Bây giờ tao không thi đấu võ, nhưng vẫn còn thi can đảm! Thế mới lạ chứ!
Ngay đó, một tên lính đứng sau cầm giáo đâm thọc vào lưng, ông mới chết.
Cho đến lúc mất, Nguyễn Triêm xứng đáng là bậc trung thần tiết liệt, để lại tiếng thơm muôn đời.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.