Danh tướng thời Bắc Tống, thu phục Tống Giang trong lịch sử là ai?

Thanh Xuân Thứ sáu, ngày 27/09/2019 16:34 PM (GMT+7)
Thủy Hử là danh tác dựa trên những câu chuyện dân gian góp mặt về những anh hùng nông dân khởi nghĩa. Đa số 108 anh hùng Lương Sơn Bạc là do tác gia Thi Nại Am hư cấu mà thành. Nhưng do dựa trên những sự kiện có thật (những năm cuối Bắc Tống, cuộc khởi nghĩa Tống Giang, Phương Lạp…) nên danh tác này cũng xuất hiện không ít nhân vật có thật trong lịch sử.
Bình luận 0

Có nhiều quan lại triều đình đã được Thi Nại Am nhắc tới. Đa số là gian thần như bọn Tứ đại ác nhân Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn. Tuy nhiên, có cũng một vài vị quan tốt như Túc Thái Úy (Túc Nguyên Cảnh), người góp công lớn trong việc nghĩa quân Lương Sơn được triều đình chiêu an. Nhưng nếu như Túc Thái Úy không được ghi chép trong chính sử, thì một vị quan khác cũng xuất hiện trong lần chiêu an nghĩa quân Lương Sơn lại là một nhân vật nổi tiếng thời Bắc Tống. Đó là Trương Thúc Dạ.

img

Trương Thúc Dạ - danh tướng thu phục Tống Giang trong lịch sử.

Trương Thúc Dạ trong Thủy Hử

Trương Thúc Dạ “ra mắt” trong Thủy Hử truyện, chính xác là phần Tục Thủy Hử qua đoạn viết: “Túc thái uý vâng lĩnh chiếu sắc đi chiêu an Lương Sơn Bạc, người ngựa một đoàn vòng vèo đến phủ Tế Châu. Thái thú Tế Châu là Trương Thúc Dạ ra ngoài thành nghênh tiếp, mời về nhà khách nghỉ ngơi. Vấn an sức khoẻ đi đường đã xong, Trương Thúc Dạ rót rượu bưng mời Túc thái uý cạn chén tẩy trần. Trương Thúc Dạ thưa: - Triều đình đã hai lần ban chiếu sắc đi chiêu an, nhưng vì chọn cử không đúng người nên mới hỏng việc quốc gia đại sự. Thái uý đi chuyến này thế nào cũng lập được công lớn cho nước nhà!”

Có thể thấy, ngay lần đầu xuất hiện, Trương Thúc Dạ đã nhận được sự ngưỡng mộ lớn từ tác gia Thủy Hử. Đấy là một vị quan biết được lòng dân, trân trọng cái chí hướng của đám Lương Sơn,  hiểu rõ đại cục: “Những kẻ ấy không phải hạng coi lễ vật khinh trọng làm điều, chỉ mong được dốc lòng trung nghĩa báo đền ơn nước, lưu danh cho hậu thế. Nếu thái uý sớm đến thì nước nhà không đến nỗi phải hao binh tổn tướng, tổn phí gạo tiền. Đám nghĩa sĩ ấy sau khi về hàng chắc sẽ lập công lớn cho triều đình”.

Trương Thúc Dạ ấy cũng là một người công tư phân minh, thanh liêm chính trực. Điều này thể hiễn rõ qua lời nói và hành động của họ Trương trong lần đi báo tin cho nghĩa quân Lương Sơn chuẩn bị nhân chiêu an triều đình: “Nói đoạn, Tống gIang mời Trương thái thú ở lại nghỉ ngơi cơm nước. Trương Thúc Dạ nhất mực từ chối, xin về. Tống Giang vội cho bưng ra một mâm vàng bạc để biếu Trương thái thú. Trương thái thú nhìn thấy liền nói: - Cái ấy hạ quan quyết không dám nhận! Tống Giang nói: - Chúng tôi chỉ có chút lễ mọn gọi là bầy tỏ tấm lòng thành, sau này công việc xong xuôi dám mong quan thái thú vui lòng nhận cho. Trương Thúc Dạ nói: - Đa tạ nhã ý của nghĩa sĩ, xin cứ giữ để ở quý trại, sau này nhận cũng không muộn”.

Trương Thúc Dạ thật đáng gọi là người biết giữ đức liêm chính. Thi Nại Am ngưỡng mộ họ Trương đến mức viết cả một bài thơ tứ tuyệt để tôn vinh nhân vật này. Dịch nghĩa thơ như sau: “Thái thú Tế Châu đức ai bằng/Chẳng tham vàng bạc, mến Tống Giang/ Mới hay liêm khiết dân đều phục/ Thế mạnh phải đâu dụ được hàng”.

img

Trương Thúc Dạ, trong Thủy Hử, xuất hiện ở lần triều đình chiêu an nghĩa quân Lương Sơn.

Trương Thúc Dạ trong lịch sử

Trương Thúc Dạ (1065 – 1127), tên tự Kê Trọng, người Vĩnh Phong, Tín Châu (thuộc Giang Tây ngày nay), là tướng lĩnh, đại thần cuối đời Bắc Tống. Thúc Dạ là cháu nội của thị trung Trương Kỳ, từ nhỏ hay bàn việc quân với ông, nhờ ấm được làm Lan Châu lục sự tham quân.

Lan Châu là nơi biên thùy xa nhất của nhà Tống, cậy Hoàng Hà che chở, mỗi năm vào lúc mặt sông đóng băng, phải phòng bị nghiêm ngặt, binh sĩ nhiều tháng không được cởi giáp. Thúc Dạ cho rằng như vậy không phải phương sách hay, bèn chọn Đại Đô – vốn là giao điểm của năm con đường – người Khương xâm phạm, ắt phải tập kết tại đó, lập căn cứ chính. Thúc Dạ dựa trên hình thế, vẽ sơ đồ công thủ, tính toán xong, cho xây thành, gọi là Tây An Châu; từ đây Lan Châu không còn nỗi lo về người Khương.

Thúc Dạ từng làm Tri Tương Thành, Trần Lưu huyện; được Tưởng Chi Kỳ tiến cử, đổi làm Lễ tân phó sứ, Thông sự xá nhân, Tri An Túc quân; do nhân sự dư thừa, nên trở về vị trí cũ. Dâng những bài văn tự viết, được làm Tri Thư, Hải, Thái 3 châu. Giữa những năm Đại Quan (1107 – 1110), làm Khố bộ viên ngoại lang, Khai Phong thiếu doãn. Lại dâng văn, được triệu về kinh thi chế cáo, ban Tiến sĩ xuất thân, thăng Hữu tư viên ngoại lang.

Thúc Dạ đi sứ nước Liêu, khiến người Liêu thán phục bởi tài nghệ bắn cung của mình. Sau khi trở về, vẽ sông núi, thành quách, đồ đạc, lễ nghi nước Liêu làm 5 thiên để dâng lên vua. Về sau, Thúc Dạ được triệu làm Bí thư thiếu giám, cất nhắc Trung thư xá nhân, Cấp sự trung. Bấy giờ quan lại làm việc lười nhác, vì thế mệnh lệnh do môn hạ tỉnh phát ra thường ghi trước chức hàm và danh tính, đợi có việc thì điền nội dung vào. Thúc Dạ ra sức phản đối tệ đoan này. Được tiến chức Lễ bộ thị lang, lại bị Sái Kính ghét bỏ, bị cách chức, về làm Tri Hải Châu.

img

Trương Thúc Dạ, đại thần cuối thời Bắc Tống.

Năm Tĩnh Khang đầu tiên (1126), quân Kim tấn công, Thúc Dạ mấy lần dâng sớ xin kỵ binh, cùng chư tướng chẹn đường về của địch, nhưng không được hồi đáp. Dời sang nhận chức ở Đặng Châu. Triều đình đặt soái của 4 đạo, Thúc Dạ lãnh Nam đạo đô tổng quản. Quân Kim lại đến, vuaTống Khâm Tông tự tay viết thư kêu gọi cần vương.

Thúc Dạ lập tức tự nắm trung quân, lấy con trai Bá Phấn nắm tiền quân, Trọng Hùng nắm hậu quân, cả thảy 3 vạn người, hôm sau lên đường. Đến Úy Thị, giao chiến với quân Kim đi do thám, vừa đánh vừa tiến. Cuối tháng 11 âm lịch, đến kinh thành, Khâm Tông ngự ở cửa Nam Huân, trông thấy quân đội của Thúc Dạ rất chỉnh tề. Thúc Dạ bày trận ở vườn Ngọc Tân, áo giáp sáng ngời, diễu võ dưới thành; Khâm Tông hài lòng, cho tiến Tư Chánh điện học sĩ, lệnh đưa quân vào thành.

Thúc Dạ giao chiến với quân Kim liên tiếp 4 ngày, giết được 2 đại tướng của địch. Khâm Tông sai sứ gởi thư có niêm phong sáp, nội dung chép những lời khen ngợi Thúc Dạ, làm hịch cáo với các nơi, nhưng chẳng thấy ai khác tham gia cần vương. Cha con Thúc Dạ ra sức chiến đấu, nhưng cuối cùng Biện Kinh vẫn thất thủ, bản thân ông bị thương. Xa giá ra gặp Kim soái, Thúc Dạ dập đầu trước ngựa mà can, Khâm Tông nói: "Trẫm vì lo cho sanh linh, không thể không tự đi." Thúc Dạ khóc to mà vái lạy, mọi người đều khóc.

Người Kim muốn lập họ khác làm hoàng đế, Thúc Dạ kiên trừ phản đối, gửi thư cho 2 Kim soái Tông Hàn, Tông Vọng xin lập thái tử để thuận với lòng dân. Chọc giận bọn Tông – Hàn, Thúc Dạ bị người Kim đưa về bắc, trên đường không cho ăn cơm, chỉ uống chút canh. Đến Bạch Câu, người đánh xe nói: "Đã qua giới hà (ranh giới sông Hoàng Hà) rồi!" Thúc Dạ đột ngột đứng phắt dậy, ngửa mặt lên trời kêu to một tiếng ai oán. Ngày hôm sau Thúc Dạ mất, hưởng thọ 63 tuổi.

img

Trương Thúc Dạ chính là người dẹp tan cuộc khởi nghĩa nông dân do Tống Giang cầm đầu năm 1122.

Trương Thúc Dạ chính là người thu phục Tống Giang

Trong Thủy Hử truyện, Thúc Dạ xuất hiện trong lần Túc thái úy nhận lệnh vua đi chiêu an nghĩa quân Lương Sơn. Còn trong chính sử, họ Trương chính là người cầm quân đánh tan cuộc khởi nghĩa Lương Sơn Bạc, thu phục Tống Giang. Sự kiện này được ghi chép trong Tống Sử.

Cuối năm 1120, Tống Giang khởi nghĩa ở Hà Sóc, cướp bóc 10 quận, uy thế cực mạnh, quan quân không dám chống lại. Đầu 122, Tống Giang cùng nghĩa quân tiến đánh Tế Châu. Thúc Dạ sai gián điệp dò xét, biết nghĩa quân ở bờ biển cướp hơn 10 thuyền lớn để chở những thứ giành được. Vì thế Thúc Dạ mộ ngàn tử sĩ, đặt mai phục gần thành và bên bờ biển, rồi sai khinh binh dẫn dụ nghĩa quân.

Đợi nghĩa quân vào sâu, phục binh bên bờ biển nổi lửa đốt thuyền, phục binh gần thành đổ ra đánh, nghĩa quân không còn lòng dạ chống lại. Phó thủ lĩnh nghĩa quân (nhiều chỗ chép là Lư Tuấn Nghĩa) bị bắt, đầu đảng Tống Giang sau nhiều ngày bị vây hãm, bè xin ra hàng. Tống Giang sau đó được gia Trực học sĩ, dời sang Tế Nam phủ nhậm chức.

Nghĩa quân Sơn Đông bất ngờ kéo đến, Thúc Dạ nhắm thế định mạnh, tìm kế trì hoãn. Thúc Dạ làm giả giấy xá tội (với những người tham gia khởi nghĩa nông dân) sai lính đưa thư gởi đến quận. Nghĩa quân trúng kế, nội tình bắt đầu phân rẽ. Thúc Dạ sau đó lại cho bày tiệc trên tiếu môn qua ở thành Tế Châu, ra vẻ nhàn hạ, sai các viên lại tuyên cáo lệnh xá miễn. Nghĩa quân nghi hoặc dùng dằng, đến chiều chưa quyết. Thúc Dạ phát 5000 quân, nhân lúc nghĩa quân uể oải mà tấn công, quan quân đuổi chém được mấy ngàn thủ cấp.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem