Tiền dịch vụ môi trường quá thấp
Trên cả nước, Phú Thọ có mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng bình quân là 772.916 đồng/ha/năm, Lai Châu là 342.734 đồng/ha/năm, đây là những tỉnh có mức chi trả cao nhất cả nước. Trong khi đó, một số tỉnh rất thấp, như Đồng Nai chỉ có 32.500 đồng/ha/năm, Cao Bằng 38.000 đồng/ha/năm, Bình Thuận 69.000 đồng/ha/năm.

Hội thảo kỹ thuật tham vấn kết quả nghiên cứu xây dựng nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 99/2010/NĐ-CP. Ảnh: P.V
Đã thấp, tiền dịch vụ môi trường rừng lại có nhiều sự chênh lệch. Trong cùng một lưu vực sông, nhưng giữa 2 tỉnh tiền dịch vụ môi trường rừng cũng có sự chênh lệch. Theo báo cáo của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Đồng Nai và Vườn quốc gia Cát Tiên, mức tiền dịch vụ môi trường rừng mà tỉnh Lâm Đồng chi trả cho các hộ dân huyện Cát Tiên là 400.000 đồng/ha/năm, trong khi đó ở bờ sông đối diện, các hộ dân của tỉnh Đồng Nai chỉ nhận được 50.000 đồng/ha/năm, ít hơn 8 lần, gây ra sự so sánh và thắc mắc.
Mặc dù cùng nằm trong một tỉnh, nhưng sự chênh lệch mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng bình quân có nơi lên đến hàng trăm lần giữa các lưu vực sông. Cụ thể tại tỉnh Bình Định, mức chi trả chênh lệch lên đến 330 lần (604.690 đồng/1.828 đồng), tại Điện Biên, mức chênh lệch là 310 lần (256.000 đồng/826 đồng).
Với mức chi trả thấp và chênh lệch như trên, chính sách không những không mang lại hiệu quả và lợi ích cho người dân, mà còn gây nên sự so sánh giữa các hộ gia đình cùng tham gia nhận khoán bảo vệ rừng, một số nơi đã thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng nhưng rừng vẫn tiếp tục bị phá.
Đề xuất trích lập quỹ dự phòng và điều tiết
Việc điều chỉnh mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng là cần thiết, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của các địa phương và phát huy ý nghĩa xã hội, nhân văn của chính sách. Tại dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 99/2010/NĐ-CP, một phương án được đưa ra là trích một phần kinh phí (không quá 20%) tổng số tiền ủy thác chuyển về Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh trong năm để lập quỹ dự phòng và điều tiết, trong đó 5% dự phòng để hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, khô hạn, 15% điều tiết, hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng và điều tiết cho những diện tích rừng ở các lưu vực cơ mức chi trả thấp hơn mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho bảo vệ rừng.
Nếu đề xuất này được chấp thuận, sẽ tạo điều kiện cho các địa phương có thêm nguồn lực để xử lý, điều tiết, hỗ trợ cho các vùng rừng thuộc các lưu vực có mức chi trả thấp hơn so với mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước, động viên người dân bảo vệ, phát triển rừng và tích cực thực hiện chính sách. Tuy nhiên, việc sửa đổi này cũng sẽ ảnh hưởng đến một bộ phận người dân bị giảm bớt tiền chi trả mà vốn dĩ họ được hưởng. Tuy vậy, phương án này vẫn có thể khả thi khi nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 99 được ban hành, nguồn tiền thu từ dịch vụ môi trường rừng sẽ tăng lên, vẫn có nguồn chi trả tăng thêm cho toàn bộ diện tích rừng có cung ứng dịch vụ, vẫn là nguồn động viên khuyến khích các chủ rừng và những hộ nhận khoán bảo vệ rừng thực hiện cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Theo tổng kết, có 4 phương thức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đang thực hiện ở các tỉnh. Trong đó, cách chi trả đối với từng lưu vực hồ thủy điện chiếm đến 80,1% diện tích rừng được bảo vệ bằng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, đây lại là cách chi trả có sự chênh lệch cao (có nơi đến hơn 300 lần) gây thắc mắc lớn nhất giữa các cộng đồng.
|
Vui lòng nhập nội dung bình luận.