DN thất thu do chính sách thu phí của TP. Hải Phòng?

Hoàng Thắng Thứ ba, ngày 19/09/2017 18:13 PM (GMT+7)
“Hải Phòng có thể thu được 300 – 400 triệu đồng mỗi chuyến hàng. Điều này có thể có ích cho địa phương, giúp địa phương có thêm tiền đầu tư hạ tầng. Nhưng đằng sau đó là năng lực cạnh tranh của DN giảm sút, số tiền đóng thuế 30 tỷ đồng, thậm chí có thể lớn hơn sau mỗi năm giờ sẽ bị giảm đi” – ông Đậu Anh Tuấn nói.  
Bình luận 0

img

Cảng Hải Phòng đang thu 20.000 đồng với mỗi tấn hàng rời nhập khẩu

Địa phương được lợi, Nhà nước thất thu?

Tại Hội thảo “Đảm bảo tính nhất quán trong điều chỉnh chính sách để đạt mục tiêu tăng trưởng” do Bộ Kế hoạch & Đầu tư tổ chức sáng 19.9, ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chia sẻ một câu chuyện về tác động của chính sách thuế, phí lên hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Theo ông Đậu Anh Tuấn, cách đây 3 ngày, ông nhận được thư của một DN ở Thái Nguyên phản ánh nghị quyết thu phí hạ tầng cảng biển của Hải Phòng. DN này sở từng hữu doanh thu khoảng 800 tỷ đồng/năm, nộp ngân sách Nhà nước 30 tỷ đồng/năm nhưng hiện đang gặp nhiều khó khăn, đứng trước lựa chọn phải chuyển đổi ngành nghề kinh doanh.

Ông Tuấn chia sẻ “Nghị quyết thu phí hạ tầng cảng biển của Hải Phòng có hiệu lực từ đầu năm 2017. Trong đó, thu phí rất nhiều container. Cụ thể, 20.000 đồng với mỗi tấn hàng rời nhập khẩu.

DN hàng này hàng năm đều có những tàu lớn chuyển hàng tới cảng Hải Phòng. Từ đó, sẽ bốc hàng chuyển sang những tàu nhỏ hơn để vận chuyển bằng đường sông. Tàu lớn thường chỉ lưu lại từ 2 tới 3 ngày trên vịnh, không hề sử dụng cơ sở hạ tầng. Song mỗi chuyến hàng, DN thường mất từ 300 – 400 triệu đồng tiền phí hạ tầng cảng biển.

Chi phí tăng nhanh và đột ngột trong thời gian qua làm lợi nhuận DN giảm mạnh. Điều này khiến DN rất chán nản, phải giảm quy mô hoạt động. Thậm chí, đứng trước lựa chọn phải chuyển đổi ngành nghề kinh doanh.

Tôi được biết, doanh thu của DN trên mỗi năm là khoảng 800 tỷ đồng, nộp ngân sách mỗi năm 30 tỷ đồng. Hải Phòng có thể thu được 300 – 400 triệu đồng mỗi chuyến hàng. Điều này có thể có ích cho địa phương, giúp địa phương có thêm tiền đầu tư hạ tầng. Nhưng đằng sau đó là năng lực cạnh tranh của DN giảm sút, số tiền đóng thuế 30 tỷ đồng, thậm chí có thể lớn hơn sau mỗi năm giờ sẽ bị giảm đi.  

Rõ ràng, một khoản phí nhỏ có thể giúp ích cho Hải Phòng, nhưng gây tổn phí cho cả một quốc gia, làm giảm hiệu quả sản suất kinh doanh của DN, giảm giá trị xuất - nhập khẩu”.   

Theo ông Tuấn, cần phải có một tiếng nói và hành động nhất quán của Chính phủ trong vấn đề này. Việc Hải Phòng thu phí hạ tầng cảng biển với các DN vận tải, đơn vị kinh doanh vận chuyển hàng vào cảng Hải Phòng có thể khiến nhiều địa phương khác có cảng biển áp dụng theo.

Ông Tuấn cho rằng, việc thu phí để bù đắp chi phí đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất là phù hợp nhưng phải tính toán lợi ích quốc gia, hiệu quả kinh doanh của DN sau khi thực hiện điều này.

DN xuất khẩu tài nguyên thô để tránh thuế VAT

Về vấn đề thu thuế tài nguyên, ông Tuấn cho rằng, DN khoáng sản vẫn đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên thô do chịu ảnh hưởng từ chính sách thuế hiện tại. Một phần nguyên nhân do chính sách tính thuế tài nguyên của Việt Nam hiện nay đánh vào sản phẩm tinh lại cao hơn rất nhiều so với sản phẩm thô.

img

Theo ông Đậu Anh Tuấn (VCCI), chính sác thuế đang gây ảnh hưởng tới hoạt động khai thác, chế biến, xuất khẩu tài nguyên của Việt Nam

Ông Đậu Anh Tuấn phân tích: “Đơn giản như thuế tài nguyên hiện đang tính trên giá trị xuất khẩu. Nếu chỉ khai thác thô, thì giá chịu thuế tài nguyên tính theo giá trị thô. Nhưng nếu DN sàng lọc, chế biến nhằm tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm, thì giá chịu thuế tài nguyên lại tính theo giá của Hải quan khi xuất khẩu.

Nếu giá trị khai thác thô chỉ là 1 đồng, giá trị chế biến là 3 đồng thì khi DN chế biến sẽ phải chịu thuế tài nguyên trên 3 đồng giá trị đó.

Như vậy, DN không có nhu cầu chế biến sâu vì càng chế biến sâu, thuế tài nguyên càng cao. Có DN nói với VCCI rằng chúng tôi xuất khẩu nguyên 1.000 khối đá thô lợi hơn rất nhiều việc mài dũa 1.000 khối đá thô đó rồi mới xuất khẩu.

Chúng ta cứ kêu gọi DN đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm tinh, qua chế biến, nhưng chính cách tính thuế tài nguyên của Việt Nam hiện nay lại khiến thuế đối với các sản phẩm qua chế biến chịu thuế VAT cao hơn so với sản phẩm khai khoáng, xuất bán luôn”.

Theo ông Tuấn, việc chỉ tập trung đánh thuế khoáng sản mà đưa ra chính sách thuế không phù hợp có thể khiến ngành công nghiệp chế biến khoáng sản của Việt Nam không thể phát triển được.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem