Lái xe hất cảnh sát lên nắp capo rồ ga bỏ chạy ở Hà Nội có thể đối diện với hình phạt nào?
Lái xe hất cảnh sát lên nắp capo rồ ga bỏ chạy ở Hà Nội có thể đối diện với hình phạt nào?
Quang Minh
Thứ ba, ngày 02/04/2024 10:55 AM (GMT+7)
Theo luật sư, với tội chống người thi hành công vụ, lái xe hất cảnh sát lên nắp capo ở Hà Nội có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt thấp nhất là bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm theo quy định…
Như Dân Việt đưa tin, trưa 1/4, Đội Cảnh sát giao thông - Trật tự Công an huyện Thanh Trì (TP.Hà Nội) làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, kiểm tra nồng độ cồn tại khu vực đường Ngũ Hiệp thuộc thôn Tương Chúc, xã Ngũ Hiệp.
Khi tổ công tác ra hiệu lệnh kiểm tra ô tô Mazda CX5, tài xế ô tô không chấp hành. Người này đã tăng ga lao thẳng vào tổ công tác, hất văng một cán bộ lên nắp capo xe. Khi xe di chuyển khoảng 200m, cán bộ công an rơi xuống đường và được đưa đi bệnh viện.
Ngay sau khi vụ việc xảy ra, Công an huyện Thanh Trì đã phối hợp các đơn vị nghiệp vụ xác minh, yêu cầu chủ ô tô là anh N.V.T. (32 tuổi, ở huyện Thanh Trì, Hà Nội) đưa xe về công an huyện để làm việc. Anh T. khai nhận không phải là người điều khiển phương tiện mà cho mượn xe.
Đến khoảng 17h30, lực lượng chức năng đã bắt giữ được người điều khiển xe là Nguyễn Việt Cường (19 tuổi, ở huyện Thường Tín, TP.Hà Nội). Qua xét nghiệm, cảnh sát xác định Cường dương tính với ma túy, không có nồng độ cồn trong khí thở.
Luật sư Ma Văn Giang – Công ty luật TNHH Niềm tin công lý, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội đánh giá: Qua video clip trên có thể thấy, người điều khiển phương tiện ô tô màu trắng trên đã có hành vi dùng vũ lực cụ thể là dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của người đang thi hành công vụ làm cho người thi hành công vụ không thực hiện được nhiệm vụ mà họ đang được phân công, đảm nhiệm.
Hành vi này đã xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội trong các lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà nước. Không những vậy, hành vi trên còn thể hiện sự coi thường pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Lái xe gây ra vụ việc có thể bị phạt tù
Người thực hiện hành vi trên có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ theo quy định tại Điều 330 Bộ luật hình sự 2015 (BLHS 2015).
Với tội chống người thi hành công vụ, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt thấp nhất là bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự; Khung hình phạt cao nhất là bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
Trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội chống người thi hành công vụ đang chấp hành một bản án có hiệu lực pháp luật trước đó thì khi Toà án xét xử vụ án sẽ quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của BLHS 2015. Điều này được quy định tại khoản 2 Điều 56 BLHS 2015.
Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội có sử dụng chất kích thích làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 BLHS 2015.
Đối với phương tiện dùng để thực hiện hành vi phạm tội là do thuê, mượn mà không thuộc quyền sở hữu của người phạm tội thì chủ sở hữu phương tiện có thể sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh nêu trên với vai trò đồng phạm giúp sức quy định tại khoản 3 Điều 17 BLHS nếu biết rõ mục đích của người phạm tội mượn phương tiện để thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ mà vẫn cho mượn.
Chủ sở hữu sẽ không phải chịu trách nhiệm khi cho mượn phương tiện nhưng không biết người mượn sử dụng vào mục đích vi phạm pháp luật, trong trường hợp này, chủ sở hữu phương tiện được xác định tư cách tham gia tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hìnnh sự theo quy định tại Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và được trả lại phương tiện do mình sở hữu hợp pháp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS 2015.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.