Năm 2025: Thời điểm "vàng" cho công nghiệp sinh học Việt Nam

Nguyễn Thịnh Thứ sáu, ngày 31/01/2025 07:42 AM (GMT+7)
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ sinh học không chỉ là động lực tăng trưởng mà còn là chìa khóa giúp Việt Nam khẳng định vị thế, hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ sinh học hàng đầu khu vực và vươn tầm thế giới.
Bình luận 0

Những tiềm năng lớn để phát triển công nghệ sinh học

Trong những năm qua, Việt Nam đã xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ sinh học và mở ra nhiều cơ hội khởi nghiệp đầy tiềm năng; tạo động lực quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững cho nền kinh tế.

Lực lượng lao động trẻ, ham học hỏi và sáng tạo là nền tảng quan trọng cho việc tiếp thu và phát triển các công nghệ sinh học tiên tiến. Đây chính là yếu tố cốt lõi giúp nâng cao giá trị, gia tăng sức cạnh tranh của ngành công nghệ sinh học, đồng thời đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Năm 2025 - Thời điểm "vàng" cho công nghiệp sinh học Việt Nam - Ảnh 1.

Cán bộ kỹ thuật của Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phú Yên kiểm tra giống sắn chống bệnh khảm lá được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Xuân Triệu/TTXVN

Ngoài một thế hệ trí thức trẻ đầy triển vọng, Việt Nam cũng có tiềm năng rất lớn để phát triển công nghệ sinh học nhờ nguồn hoạt chất sinh học từ vi sinh vật, tài nguyên thiên nhiên phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong các lĩnh vực như y dược, nông nghiệp và môi trường.

Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và đề án nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ sinh học, tạo môi trường thuận lợi cho nghiên cứu và ứng dụng.

Công nghệ sinh học tại Việt Nam đang được đánh giá là một lĩnh vực có tiềm năng phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Theo Nghị quyết số 36-NQ/TW, mục tiêu đến năm 2030 là đưa Việt Nam trở thành một trong mười quốc gia hàng đầu châu Á về sản xuất và dịch vụ thông minh trong lĩnh vực công nghệ sinh học, với đóng góp khoảng 7% vào GDP quốc gia.

Tất nhiên vẫn còn những thách thức cần vượt qua như thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao mặc dù có lực lượng lao động trẻ, nhưng số lượng chuyên gia có trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ sinh học vẫn còn hạn chế.

Thêm nữa, nhiều phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu chưa được trang bị đầy đủ, ảnh hưởng đến hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng. Sự hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp còn hạn chế, dẫn đến việc nhiều kết quả nghiên cứu chưa được thương mại hóa.

Năm 2025 - Thời điểm "vàng" cho công nghiệp sinh học Việt Nam

Để khai thác hiệu quả tiềm năng của công nghệ sinh học, Việt Nam cần tập trung vào một số nội dung trọng điểm.

Đó là tăng cường đào tạo chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ sinh học, đồng thời khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài để tiếp thu kiến thức và công nghệ mới.

Nâng cấp và trang bị hiện đại cho các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và phát triển.

Tăng cường liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học và doanh nghiệp để đưa các kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tiễn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

GS.TS Joo-Won Suh, Trung tâm Nghiên cứu Hiệu quả Sinh học Myongji, Đại học Myongji (Hàn Quốc) thừa nhận Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển công nghệ sinh học, tuy nhiên điều quan trọng nhất lúc này là tập trung đầu tư đúng hướng để khai thác tối đa tiềm năng đó.

GS.TS. Joo-Won Suh nhận định, năm 2025 chính là thời điểm vàng để Việt Nam đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học theo hướng công nghiệp hóa.

"Trong tương lai, công nghệ sinh học sẽ tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống, từ y học, nông nghiệp đến môi trường và sản xuất công nghiệp. Đây là cơ hội để Việt Nam định hình một ngành công nghiệp mũi nhọn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh trên bản đồ công nghệ thế giới", GS.TS. Joo-Won Suh nói.

GS.TS. Joo-Won Suh bày tỏ, sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong trao đổi nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Khi có sự hợp tác chặt chẽ, Việt Nam không chỉ tiếp thu công nghệ mà còn có thể phát triển những sáng kiến độc đáo của riêng mình.

Năm 2025 - Thời điểm "vàng" cho công nghiệp sinh học Việt Nam - Ảnh 2.

GS.TS. JOO-WON SUH, Trung tâm nghiên cứu hiệu quả sinh học Myongji, Đại học Myongji, Hàn Quốc - Ảnh: VGP/ Văn Hiền

Với nguồn lực sẵn có và chiến lược đầu tư đúng đắn, Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng để bứt phá trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Không chỉ là bài toán phát triển kinh tế, đây còn là chìa khóa giúp đất nước chủ động trước những thách thức toàn cầu, từ an ninh lương thực, y tế đến môi trường.

PGS.TS Phan Tiến Dũng, Trưởng ban Ứng dụng và Triển khai công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng, cần khuyến khích và tạo lập môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp để người đam mê khoa học được làm việc và cống hiến, đóng góp cho nền CNSH nước nhà.

Trong đó, nhà khoa học có thể sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm kết quả nghiên cứu của mình một cách tốt nhất, đồng thời nâng cao giá trị lao động, tạo tiền đề thúc đẩy đổi mới và sáng tạo, hỗ trợ phát triển kinh tế. Nhà nước cũng cần đơn giản hóa các thủ tục về chuyển giao công nghệ để đẩy nhanh hơn việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học từ viện, trường cho doanh nghiệp.

Nhiều chuyên gia đồng quan điểm rằng, Nhà nước cần tạo cơ chế để các trường, viện liên kết với doanh nghiệp, doanh nghiệp liên kết với doanh nghiệp, địa phương liên kết với địa phương, trong nước liên kết với nước ngoài để tạo thành hệ sinh thái, nguồn lực hỗ trợ cho CNSH phát triển.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần có chương trình đầu tư, chiến lược dài hạn đối với ngành CNSH. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển và ứng dụng CNSH; có chính sách thu hút các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, sản xuất sản phẩm CNSH và hỗ trợ doanh nghiệp CNSH nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ mới, sở hữu trí tuệ.

PGS.TS Trương Ngọc Kiểm, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao Tri thức và Hỗ trợ Khởi nghiệp (Đại học Quốc gia Hà Nội) chia sẻ từ thực tế cho thấy, tại Đại học Quốc gia Hà Nội không chỉ tập trung đào tạo những nhà khoa học xuất sắc mà còn thúc đẩy chuyển giao tri thức, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, giúp công nghệ sinh học thực sự đi vào cuộc sống.

Nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và thực tiễn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã triển khai nhiều giải pháp kết nối nhà khoa học, nhóm nghiên cứu với doanh nghiệp.

Nhờ đó, hàng loạt công trình khoa học đã được ứng dụng, mang lại giá trị thiết thực như: các công nghệ xử lý môi trường, cảnh báo thiên tai, lũ lụt đã được ứng dụng tại nhiều địa phương. Trong nông nghiệp, công nghệ bảo quản sau thu hoạch giúp nâng cao giá trị nông sản như sầu riêng, thanh long, xoài, vải thiều, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp trong việc cải tiến giống cây trồng, vật nuôi.

Với chiến lược phát triển hợp lý và sự chung tay của các bên liên quan, công nghệ sinh học hứa hẹn sẽ trở thành một trong những ngành mũi nhọn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem