|
Dù cố gắng nhưng mục tiêu quốc gia cấp nước nông thôn ở Ninh Bình khó đạt. Ảnh: Hữu Thông |
Theo Chi cục Phát triển nông thôn Ninh Bình, thời gian tới, tỉnh sẽ xây dựng thêm 36 trạm cấp nước tập trung mới phục vụ cho 220.000 người dân nông thôn và nâng cấp sửa chữa 17 công trình cấp nước tập trung hiện bị xuống cấp...
Nước sạch đã về xã nghèo
Thực hiện dự án về nước sạch nông thôn (NSNT) đối với các xã có tỷ lệ hộ nghèo, các huyện, thị của Ninh Bình đã tập trung xây dựng các trạm cấp nước cho các xã ở huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô...
Đến năm 2015, Ninh Bình đặt mục tiêu có khoảng 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 60% từ các công trình cấp nước tập trung...
Tại huyện Yên Mô, Chương trình NSNT đã tạo sự được chuyển biến trong nhận thức của người dân về việc sử dụng nước sạch trong bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Hầu hết cán bộ, đảng viên, nhân dân và một số doanh nghiệp tích cực hưởng ứng, đóng góp xây dựng các công trình nước sạch tập trung theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm.
Đến nay, trên địa bàn huyện có 9 nhà máy nước sạch đang hoạt động, 4 nhà máy đang được xây dựng và 2 dự án đã được chấp thuận đầu tư với tổng kinh phí trên 100 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước hợp vệ sinh đạt 95,6% với 26,73% số hộ sử dụng nước sạch từ các công trình cấp nước tập trung. Hiện tỷ lệ hộ dân nông thôn trên địa bàn tỉnh được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 75,3%.
Khó đạt mục tiêu quốc gia
Tuy nhiên, ở nhiều huyện, việc thực hiện mục tiêu còn gặp nhiều khó khăn. Toàn huyện Gia Viễn đã có 27 công trình nước sạch ở 21/21 xã, thị trấn, tỷ lệ dân số được dùng nước sạch vệ sinh đạt 80%, tăng so với năm 2006 là 9,4% nhưng chất lượng nước và chất lượng xây dựng các công trình cấp nước còn thấp. Trong tổng số 80% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch thì mới có gần 40% dân số được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh. Nhiều vùng đang diễn ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước.
So với mục tiêu chiến lược quốc gia về cấp nước sạch đến năm 2010 thì tỷ lệ dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh vẫn chưa đạt (mục tiêu đặt ra là 85%). Trong quá trình triển khai thực hiện dự án do thiếu nguồn vốn, nên việc thi công một số công trình còn kéo dài; một số công trình cấp nước đã bị xuống cấp nhưng chưa được duy tu sửa chữa, gây thất thoát.
Giá nước thường xuyên thay đổi, tiền phụ cấp cho cán bộ quản lý, công nhân vận hành thấp đã gây ảnh hưởng đến việc cung cấp nước và chất lượng nước sinh hoạt cho dân cư. Ngoài ra, việc xử lý đối với những trường hợp vi phạm quản lý, vận hành nước chưa triệt để, chất thải chăn nuôi, rác sinh hoạt, nước thải làng nghề… chưa nghiêm, gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước.
Nguyễn Hữu
Vui lòng nhập nội dung bình luận.