Vụ xin 200 m2 đất không được, "cuỗm" luôn 990 m2 đất ở TP.Thủ Đức: Chủ đất cầu cứu khẩn
Vụ xin 200 m2 đất không được, "cuỗm" luôn 990 m2 đất ở TP.Thủ Đức: Chủ đất cầu cứu khẩn
Quốc Hải
Thứ hai, ngày 06/03/2023 11:20 AM (GMT+7)
Do tuổi cao, sức khỏe kém, không có điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm chuyển dịch về quyền đối với tài sản đang tranh chấp, chủ mảnh đất 990 m2 bị chiếm dụng trái phép ở TP. Thủ Đức đã có đơn cầu cứu khẩn đến các ngành hữu quan để ngăn chặn đối với các trường hợp chuyển nhượng trái phép.
Liên quan đến thông tin mà báo Dân Việt đã đăng tải Chuyện lạ ở TP Thủ Đức: Xin 200 m2 đất không được, "cuỗm" luôn… 990 m2 đất, ông Phan Thanh Long, chủ mảnh đất 990 m2 nói trên vừa có đơn cầu cứu đến các ngành hữu quan, đề xuất ngăn chặn đối với các trường hợp chuyển nhượng trái phép đối với mảnh đất trên.
Khó thực hiện biện pháp ngăn chặn chuyển nhượng trái phép
Theo ông Phan Thanh Long, ông là người yêu cầu đòi lại tài sản (990 m2 đất) đang bị ông Nguyễn Tuấn Hiệp (địa chỉ: 15/87, KP.9, P.Trường Thọ, TP.Thủ Đức) chiếm đoạt trái phép. Trong các văn bản hòa giải giữa hai bên do UBND P.Trường Thọ, TP. Thủ Đức chủ trì, ông Hiệp cũng thừa nhận toàn bộ diện tích đất trên là của cha mẹ ông Long cho cha nuôi ông Hiệp là ông Nguyễn Văn Tràng ở nhờ (ông Tràng đã chết từ năm 2000) .
Theo ông Long, năm 1999, ông đã làm thủ tục kê khai đăng ký nhưng chưa được. Bất ngờ, năm 2003, phát hiện ông Hiệp đang định phân lô bán nền, nên ông đã làm đơn đòi lại tài sản, UBND phường Trường Thọ, TP. Thủ Đức, TP.HCM khi đó đã thụ lý giải quyết.
Tuy nhiên, trong khi vụ việc chưa giải quyết xong thì ông Long phát hiện ông Hiệp bất ngờ lại được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông Hiệp đã tự ý bán một phần diện tích đất trên.
Cụ thể, theo Biên bản hòa giải cơ sở (lần 2 ) ngày 14/7/2022 tại UBND phường Trường Thọ, TP Thủ Đức, TP.HCM thì hiện diện tích trên (990 m2) có một phần ông Hiệp đang sử dụng và một phần ông Hiệp đã chuyển nhượng. Trong đó, phần ông Hiệp đang sử dụng là nhà số 157 đường số 11 (Giấy Chứng nhận quyền sử dụng số CN 218977 cấp ngày 16/7/2019).
"Tôi không biết UBND phường Trường Thọ dựa vào căn cứ nào để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hiệp.
Trong khi diện tích đất trên đang tranh chấp chưa được giải quyết xong và đã có đủ căn cứ để chứng minh là tài sản của ông Long, cả về giấy tờ chứng minh lẫn lời khai của ông Hiệp", LS Nguyễn Kim Dung, Trưởng Văn phòng Luật sư Nguyễn Kim Dung (Đồng Nai).
Ngoài ra, ông Hiệp đã chuyển nhượng như sau: Nhà số 157A (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BT 874176, cấp ngày 10/7/2014) và nhà số 157 B (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BT 574174, cấp ngày 10/7/2014).
Phần diện tích còn lại hiện chưa thể hiện đã được hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Từ đó, ông Long đã khởi kiện đòi lại tài sản, và vụ việc đang được Tòa án Nhân dân TP Thủ Đức, TP.HCM thụ lý giải quyết theo thông báo thụ lý số 973/TB-TLVA ngày 3/11/2022.
Theo ông Long, do ông Hiệp đã nhiều lần bán đất của mình, nên ông rất lo sợ ông Hiệp sẽ tiếp tục lén lút thực hiện hành vi chuyển nhượng.
"Theo quy định pháp luật thì tôi có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm chuyển dịch về quyền đối với tài sản đang tranh chấp nhưng phải thực hiện biện pháp đảm bảo. Tuy nhiên, do tôi là người cao tuổi, sức khỏe kém, không có điều kiện để thực hiện việc áp dụng biện pháp đảm bảo.
Vì vậy, kính mong các ngành hữu quan lưu ý về trường hợp diện tích đất này đang tranh chấp, kịp thời ngăn chặn đối với các trường hợp chuyển nhượng trái phép", ông Long đề xuất.
2 lần hòa giải bất thành, vụ việc được đẩy ra tòa
Theo tìm hiểu của Dân Việt, ngày 23/4/2003, UBND phường Trường Thọ đã đứng ra hòa giải vụ việc theo đơn khởi kiện của ông Phan Thanh Long với ông Nguyễn Tuấn Hiệp chiếm mảnh đất 990 m2 của gia đình. Tại biên bản này, ông Long cho biết cha mẹ ông đã mua trước năm 1975, sau đó đã đi hoạt động cách mạng nên giao lại cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Tràng trông coi.
Năm 1975, cha mẹ ông Long về địa phương để xác minh mảnh đất trên là của gia đình, có xác nhận của UBND ấp Trường Thọ (nay là phường Trường Thọ).
Về phía ông Hiệp, người này cũng cho rằng, phần đất này do cha mẹ ông đã trông coi từ năm 1956, do cha mẹ ông Long đã đồng ý cho ở. Tuy nhiên, theo ông Hiệp, do thời điểm này phần đất trên bỏ hoang và bị ngập nên gia đình ông bò tiền của, công sức bồi đắp. Vì vậy không đồng ý trả lại.
Vì vậy, lần hòa giải thứ nhất không thành công.
Tiếp đến, ngày 14/7/2022, UBND P.Trường Thọ tiếp tục đứng ra hòa giải vụ việc. Trong lần hòa giải thứ 2 này, ông Long tiếp tục đòi lại mảnh đất 990 m2.
Trong khi đó, ông Nguyễn Tuấn Hiệp cho hay, ông sinh sống trên mảnh đất này từ nhỏ. Năm 1998, cha mẹ ông bệnh nặng nên có bán 1 phần đất giấy tay để lo cho cha mẹ và năm 2000, cha mẹ ông mất và được ủy quyền nên ông mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
"Năm 2003, UBND phường Trường Thọ tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai, tôi có đề nghị nếu trả lại khu đất thì phải cho tôi một phần đất 200 m2 để bù đắp công sức cải tạo đất và có chỗ sinh sống.
Nhưng trong thời gian từ 2003 đến 2013, ông Long không ý kiến gì nên tôi đã làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vì vậy, tôi không đồng ý việc đòi lại khu đất trên do đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã được chuyển nhượng một phần cho người khác", ông Hiệp cho hay.
Lần hòa giải này vì thế cũng không thành công nên UBND phường Trường Thọ đã hướng dẫn các bên tranh chấp liên hệ Tòa án Nhân dân TP.Thủ Đức để được hướng dẫn và xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
"Phần đất trên có giá trị tạm tính khoảng 14 tỷ đồng (theo thông báo thụ lý số 973/TB-TLVA ngày 03/11/2022 của Tòa án Nhân dân TP Thủ Đức), nếu yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm chuyển dịch về quyền đối với tài sản đang tranh chấp thì phải thực hiện biện pháp đảm bảo nhưng tôi đang rất khó khăn", ông Phan Thanh Long lo lắng.
Theo LS Nguyễn Kim Dung, Trưởng Văn phòng Luật sư Nguyễn Kim Dung (Đồng Nai), căn cứ vào các hồ sơ, ông Nguyễn Tuấn Hiệp không có giấy tờ chứng minh về nguồn gốc đất, trong lúc ông Phan Thanh Long đã có đầy đủ giấy tờ chứng minh theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 100 Luật Đất đai năm 2013.
Chưa kể, điều 19 Nghị định 43/2014/NĐ-CP có quy định đối với các trường hợp không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, là "Người thuê, thuê lại đất của người sử dụng đất".
Ngoài ra, theo Điều 106 khoản 2 điểm d Luật Đất đai có quy định về các trường hợp thu hồi giấy chứng nhận đã cấp: "… Không đúng mục đích sử dụng hoặc thời hạn sử dụng hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai".
"Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hiệp là không đúng nguồn gốc sử dụng đất vì nguồn gốc sử dụng đất là của gia đình ông Long chứ không phải do gia đình ông Hiệp tự khai phá. Căn cứ vào quy định trên thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Hiệp thuộc trường hợp phải thu hồi", LS Nguyễn Kim Dung nói.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.