Những tranh cãi chưa ngã ngũ về cây cầu
Chùa Cầu Hội An được làm theo kiểu thượng chùa - hạ cầu, có kích thước 3m x 18m. Mái Chùa lợp ngói âm dương, có trụ xây bằng đá, mặt cầu lát ván, hai đầu cầu nối với 7 gian giữa theo hình chữ I.
Theo ông Võ Phùng, Giám đốc Trung tâm Văn hóa TP. Hội An, Chùa Cầu từ lâu đã được du khách trong nước và thế giới biết đến như biểu tượng của người dân phố cổ Hội An. Tuy nhiên, cho đến nay, việc ai đứng ra xây dựng Chùa Cầu, người Nhật Bản, người Việt hay người Minh Hương (Trung Hoa) và chùa có niên đại bao nhiêu, vẫn còn đang tranh cãi chưa ngã ngũ.
Với những người làm văn hóa như ông hiện nay suy đoán, Chùa Cầu xây dựng ở cảng thị Hội An vào thời gian trước đó và có chậm nhất xuất hiện năm 1617 và chắc chắn người chủ cây cầu đó không phải là người Việt.
Ông Phùng dẫn giải, triều Nguyễn dưới thời Tự Đức (1847- 1883) viết trong Đại Nam nhất thống chí và trong Kỷ yếu kỷ niệm 47 năm thành lập Trường Trung học Trần Quý Cáp, Hội An (1999, tr. 16-22) ghi, vào năm 1719, nhân chuyến tuần du phương Nam, Chúa Nguyễn Phúc Chu khi từ phương Bắc đến Hội An, thấy phía Tây phố có cầu, thuyền buôn tụ họp đông đúc bên phố chợ sông Hoài, nên đặt tên “Lai Viễn kiều” (tức cây cầu của những người từ phương xa tới) .
Cùng với đó, Chúa đã cho mạ khắc biển vàng thành bức hoành phi nhằm ghi dấu nơi ngài đã đi qua. Hiện, bức hoành phi chúa ban vẫn còn treo bên trong Chùa Cầu.
Trong khi đó, một thư tịch cổ của nước nhà lại chép, cây cầu cổ được tìm thấy vào năm 1617 với tên gọi Cầu Nhật Bản. Một tài liệu khác xác định, Chùa Cầu được xây dựng vào năm 1593 cũng với tên gọi Cầu Nhật Bản, để thông thương buôn bán của người Hoa kiều, Nhật kiều.
Niên đại là vậy, đối với phần người đề xướng xây dựng, sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn (1992, tr.379) thể hiện, cầu này do người khách buôn Nhật Bản làm nên. Sách đã viết, từ cuối thế kỷ XVI- đầu thế kỷ XVII, người Minh Hương (Trung Hoa) ở Hội An đã khởi xướng xây cầu bắc qua sông Hoài, nhằm tạo điều kiện để người dân hai con phố Faifo (Nhật Bản) và Ba Tàu (Trung Hoa) nằm 2 bên thông thương buôn bán.
Đến năm 1653, cầu được tu sửa và cho xây dựng thêm ngôi chùa nhỏ nằm sát cầu ở phía Tây để thờ tự. Ngoài chức năng đi lại, chùa còn làm nơi tâm linh của cộng đồng người Hoa Kiều, Nhật Kiều và cả người Việt. Từ đó danh xưng cầu Nhật Bản dần bị quên lãng và được thay vào đó bằng tên gọi quen thuộc Chùa Cầu (ghép ngôi chùa và cây cầu).
Đặc biệt, ở cảng thị Hội An ngày xưa, cộng đồng người Việt, người Nhật, người Hoa có chung một truyền thuyết về nguyên nhân gây ra động đất. Họ cho rằng, ở ngoài đại dương có một loài thuỷ quái mà người Việt gọi Con Cù, người Nhật gọi Mamazu, người Hoa gọi Câu Long.
Con vật này có đầu ở Nhật Bản, đuôi nằm ở Ấn Độ và lưng vắt qua khe nước ở Hội An, nơi hiện mà Chùa Cầu bắc qua. Mỗi khi con thuỷ quái ngóc đầu lên, nước Nhật bị động đất và Hội An cũng rung chuyển khiến khu người Nhật, người Hoa, người Việt không thể bình yên làm ăn buôn bán.
Để yểm trừ, người Minh Hương lập ngôi chùa nhỏ nằm sát cây cầu cổ để thờ Bắc Đế Chân Võ (hay Huyền Thiên Đại Đế) với mục đích khống chế con Câu Long không gây ra động đất.
Ngoài ra, cũng có 1 giai thoại khác kể rằng, trước khi những thương gia Nhật Bản, Trung Hoa đến cảng thị Hội An buôn bán, vùng đất này thuộc địa bàn phân bố của người Chiêm Thành, cảng thị nổi tiếng bây giờ có tên cảng Đại Chiêm.
Người Chiêm Thành có tục thờ sinh thực khí mà cụ thể là “Lingar- Yoni”. Do đó, khi người Chiêm Thành xây dựng Chùa Cầu, họ dùng nơi đây để thờ Linh Phù Thủy Khấu (thủy thần), nhằm phù hộ người đi biển tránh những tai ương, thoát khỏi những thuỷ quái.
Ông Phùng nhìn nhận, cách lý giải này cũng có cơ sở vì người Chiêm Thành từng được biết đến với nghề đi biển giỏi và gốc gác từ người Đông Nam Á hải đảo trôi dạt sang.
Tượng “Thần Hầu”, “Linh Cẩu” trấn yểm thủy quái
Điểm nhấn của Chùa Cầu dễ thấy, phía Tây cầu đặt 2 tượng khỉ đá, một đực 1 cái trên bệ thờ quay mặt vào nhau; phía đông đặt 2 tượng chó đá, cũng là cặp “thanh mai trúc mã”. Hình dáng các con vật đều cao to giống thật, ngồi canh gác theo tư thế nhổm lên, sẵn sàng bảo vệ sự an lành của người dân phố Hội. Cạnh tượng, có những câu đối bằng chữ Hán, dịch nghĩa đều nói về hai con linh vật được cho là đang “trấn yểm” hai đầu Chùa Cầu.
Lý giải về tượng thờ chó và khỉ tại Chùa Cầu, một số bô lão ở Hội An cho rằng, việc cân xứng 2 bên đầu cầu hai con linh vật trên, ngụ ý nói về thời gian xây dựng công trình. Cụ thể, Chùa Cầu được xây kéo dài 3 năm, bắt đầu động thổ từ năm Thân (con khỉ) và hoàn thành năm Tuất (con chó). Ngoài ra, việc xây dựng hai bên đầu cầu những con chó và khỉ được hiểu như một cách chỉ phương hướng trên địa bàn: Thân chỉ hướng “tây nam”; còn Tuất chỉ hướng “tây bắc”.
Tuy nhiên, theo ông Phùng, đa phần vẫn thuận theo nghĩa tâm linh. Hai linh vật “độc tôn” này chỉ ở phố cổ Hội An và được thờ theo tín ngưỡng vật tổ của người Nhật. Các tài liệu ghi chép lại đều có ý, vì muốn khống chế con Cù hay Mamazu lúc đó, người Nhật thờ Thần Khỉ và Thần Chó trên hai đầu cầu. Cây cầu bắc qua với các con vật bên trên, coi như thanh kiếm cắm xuống huyệt lưng, sẽ “yểm” con thuỷ quái, làm nó không cựa quậy, vùng vẫy, quẫy đuôi khi nước lớn, mong trừ tai họa.
Trong khi đó, tục thờ chó, khỉ của cư dân Việt cũng đã tồn tại từ lâu đời và được thể hiện dưới hai dạng thức. Một số chôn tượng chó đá trước cổng nhà như một linh vật hay để canh cổng với ý nghĩ như vị thần bảo hộ trừ tà ma, cầu phúc, thường gọi là “Linh Cẩu”.
Cũng có khi, “Linh Cẩu” được đặt trên những bệ thờ để thờ phụng như con Kỳ lân. Riêng trong những chùa chiền vẫn thường thấy con khỉ được chưng tụng. Người dân gọi tôn nghiêm bằng cái tên “Thần Hầu”. Con vật này nhằm trấn giữ xứ đất chống lại những điều xấu xâm hại.
Từ đó suy ra, “Linh Cẩu” và con “Thần Hầu” được lập miếu thờ “có đôi có cặp” tại Chùa Cầu với ý niệm, cầu mọi điều trong cuộc sống sẽ suôn sẻ, may mắn. Đặc biệt, chất liệu tạc nên những bức tượng này được làm bằng gỗ thay vì bằng đá, rồi mạ màu cho giống tượng chó đá, khỉ đá.
Điều kỳ lạ, trải qua 500 năm với sự khắc nghiệt của thời tiết, mưa gió, nhưng những tượng gỗ này vẫn trường tồn. Vì vậy, về mặt tâm linh, không riêng gì người dân phố cổ mà khách thập phương đều tin “Linh Cẩu” và “Thần Hậu” có hồn nên rất tôn thờ.
Mỗi khi hành hương về Chùa Cầu, nhiều người đến trước mặt hai linh vật này thành tâm cúng vái, cầu bình an cho gia đình. Vào những ngày rằm, mùng một, có người còn sắp mâm lễ vật, hoa quả, hương đèn dâng lên hai ngài “Linh Cẩu” và “Thần Hầu”.
Riêng về những linh nghiệm trong “trấn yểm” của tượng “Thần Hầu” còn thể hiện qua nhiều lời đồn thổi đang lưu truyền dân gian cho đến tận hôm nay. Giai thoại kể, có thời gian bức tượng gỗ Huyền Thiên đại đế thờ ở chùa và một tượng khỉ bằng đá trên cầu bị mất. Vì thế, thời gian này, Chùa Cầu và cả Hội An liên tiếp bị “thủy quái” nhấn chìm trong những trận lũ lịch sử.
Mãi đến hơn 20 năm sau mới tìm thấy, nhưng tượng khỉ đã biến dạng, hư hỏng hoàn toàn, kéo theo các con khác phải thay mới lại tất cả bằng gỗ. Từ đó, bùa ngải “trấn yểm” qua thời gian đã mất linh nghiệm nên thực tế, năm nào cũng vậy, cứ đến mùa mưa, nước sông Hoài dâng cao, Hội An lại tiếp tục chịu chung cảnh lụt lội.
Vũ Vân Anh (Pháp luật Việt Nam)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.