Chọn địa điểm
Nuôi cá lồng trên sông, hồ phải chọn nơi có mực nước sâu trên 3 m, lưu tốc dòng nước không quá 0,3 - 0,5 m/giây, có nguồn nước sạch không bị nhiễm bẩn bởi nước thải sinh hoạt hoặc nước thải công nghiệp.
Môi trường nước phải đảm bảo pH 6,5 - 8,5, ôxy hòa tan > 5 mg/l.
Nơi đặt lồng nuôi cá cần chọn các điểm khuất gió, có nước lưu thông tốt, đáy lồng phải cách đáy sông hồ ít nhất 1 m. Không đặt lồng gần bờ có nhiều bóng cây, rong cỏ làm cá dễ bị thiếu ôxy hòa tan hoặc ở những điểm eo, ngách.
Lồng bố trí trên sông, hồ thành các cụm, mỗi cụm không quá 20 lồng. Khoảng cách giữa các cụm lồng 200 - 300 m, giữa các lồng cách xa nhau 3 - 5 m và đặt so le nhau để tăng lưu tốc dòng chảy qua lồng. Tổng diện tích lồng chiếm 0,2% diện tích sông, hồ.
Cấu tạo lồng
Lồng nuôi cá trên hồ chứa có thể tích 5 - 15 m3, lồng trên sông cũng không nên làm quá lớn, tối đa khoảng 200 m3. Vật liệu làm khung lồng có thể làm bằng gỗ, nhựa hoặc tre, có bề mặt nhẵn, được liên kết với nhau bằng các bu lông. Lưới làm lồng nuôi cá tốt nhất là loại làm bằng polyetylen dệt không co rút. Cỡ mắt lưới phụ thuộc vào kích cỡ cá lúc thả. Lồng được buộc vào khung lồng và làm nổi bằng hệ thống phao nhựa hoặc thùng phuy đính vào khung lồng. Các góc lồng được cố định bằng các cọc hoặc gỗ buộc thẳng góc với khung lồng.
Chọn cá và mật độ thả
Nơi đặt lồng nuôi cá cần chọn điểm khuất gió, có nước lưu thông tốt.
Cá giống có sức khỏe tốt, kích thước lớn, không có dấu hiệu của bệnh. Nên chọn những loại cá có sức chống chịu tốt, tăng trưởng nhanh, giá thương phẩm khá cao như cá trắm cỏ, cá rô phi, diêu hồng… Đối với cá trắm cỏ yêu cầu kích cỡ cá giống 0,5 - 0,7 kg/con, mật độ 20 con/m3. Với cá diêu hồng, kích cỡ cá giống trên 25 g/con, mật độ thả: 100 con/m3 lồng. Cá rô phi, kích cỡ thả 5 - 6 cm, trọng lượng 10 - 15 g/con, mật độ 120 - 200 con/m3.
Cá giống phải đồng đều về kích cỡ không dị hình và xây xát, cá phải có kích cỡ lớn để không chui lọt vách lồng.
Cá giống nên thả vào buổi sáng trời mát, trước khi thả nên tắm cho cá bằng nước muối 2 - 3% để phòng bệnh.
Thức ăn và cho ăn
Để đối tượng nuôi phát triển nhanh cần lựa chọn thức ăn phù hợp với đặc tính của loài nuôi.
Đối với cá trắm cỏ: Sử dụng thức ăn tinh cho cá ăn 2 lần/ngày vào các giờ cố định với lượng thức ăn 2 - 3% trọng lượng cá trong lồng và cho thức ăn vào khung cho ăn. Thức ăn xanh (gồm lá chuối, cỏ, lá ngô, rong...) với lượng 30% trọng lượng cá, cho ăn 2 lần/ngày, nên cho thức ăn vào lồng từ từ để tránh thất thoát ra ngoài.
Cá diêu hồng và rô phi: Thức ăn dùng để nuôi đối tượng này là thức ăn chế biến, giai đoạn cá nhỏ dưới 300 g có thể cho cá ăn thức ăn tự chế với hàm lượng đạm 22 - 30% hoặc thức ăn công nghiệp. Giai đoạn cá trên 300 g nên cho ăn thức ăn công nghiệp vì cá yêu cầu dinh dưỡng cân bằng.
Lượng thức ăn được điều chỉnh theo trọng lượng cá nuôi tránh tình trạng dư thừa ảnh hưởng đến môi trường cũng như hiệu quả kinh tế. Cứ 10 ngày kiểm tra tốc độ sinh trưởng cá 1 lần trên cơ sở đó ước lượng được khối lượng cá trong ao. Lượng thức ăn cho ăn trong giai đoạn đầu bằng 5 - 6% khối lượng cá nuôi. Khi cá đạt cỡ 100 g cho ăn 3 - 4%, khi cá đạt trên 200 g cho ăn 2%. Ðối với thức ăn tự chế phải chế biến có độ kết dính cao, tránh thất thoát khi cho cá ăn bằng cách cho ăn từ từ. Thành phần dinh dưỡng phải đảm bảo cho cá sinh trưởng tốt.
Quản lý và chăm sóc
Thường xuyên làm vệ sinh lồng bè để đảm bảo nước lưu thông tốt, cung cấp đủ ôxy hòa tan cho cá. Khi nước chảy mạnh phải có biện pháp che chắn làm giảm lưu tốc của nước qua bè. Khi nước chảy yếu phải có biện pháp quạt làm tăng cường lượng nước lưu thông cho bè nuôi. Thường xuyên theo dõi tình trạng sức khỏe của cá, nhất là khi cho cá ăn để phát hiện bệnh dịch kịp thời. Thời điểm cá hay bệnh là đầu mùa lũ và cuối mùa lũ ở ĐBSCL và tháng 9 - 10 ở miền Bắc.
Vào mùa mưa lũ cần theo dõi dự báo thời tiết để di chuyển lồng bè đến nơi an toàn.
Thu hoạch
Tiến hành thu hoạch cá khi đạt kích cỡ thương phẩm, tùy thuộc vào kích cỡ cá, thị trường tiêu thụ để tiến hành thu tỉa hoặc thu hoạch toàn bộ. Nên có kế hoạch thu trước khi mùa mưa lũ đến để giảm thiểu thiệt hại.
Năng suất đối với nuôi cá lồng trên sông, hồ chứa có thể đạt 40 - 60 kg/m3, nuôi lồng nhỏ có thể đạt 80 - 100 kg/m3.
Phòng và trị bệnh
Cần áp dụng các phương pháp phòng bệnh tổng hợp như: Quản lý thức ăn chặt chẽ, tránh dư thừa sẽ làm ô nhiễm lồng nuôi làm cá dễ nhiễm bệnh; thả nuôi với mật độ thích hợp; treo túi vôi và túi thuốc tại các địa điểm cá thường tập trung như vị trí đặt sàng ăn để diệt khuẩn và phòng bệnh cho cá…
Xác định rõ dấu hiệu bệnh lý và có biện pháp trị bệnh kịp thời nhằm giảm thiểu thiệt hai do bệnh gây ra.
Bệnh trùng bánh xe
Khi cá mới mắc bệnh, mình cá có lớp nhớt màu hơi trắng đục, cá bệnh thường nổi đầu và thích tập trung nơi nước chảy, thích cọ mình vào thành bể hoặc cây cỏ và có cảm giác ngứa ngáy. Đôi khi cá nhô đầu lên khỏi mặt nước và lắc mạnh đầu. Cá bệnh nặng mang cá sưng to, da cá chuyển màu xám, trông lờ đờ, đảo lộn vài vòng rồi chìm xuống đáy ao và chết.
Trị bệnh bằng lá xoan bó thành từng bó thả vào các góc trong ao nuôi hoặc dùng CuSO4 nồng độ 3 - 5 ppm tắm cho cá 5 - 15 phút. Hoặc dùng formalin nồng độ 200 - 250 ml/m3 tắm trong 30 - 60 phút, tắm vào buổi sáng sớm hoặc vào chiều tối.
Bệnh đốm đỏ
Dấu hiệu sớm nhất của bệnh này là vây đuôi cá chuyển sang màu đen, thân có màu tối, hai bên lưng có hai sọc màu trắng, vây đuôi và thân có màu tối đen. Khi cá bị bệnh nặng ở xoang miệng, nắp mang, tơ mang, xung quanh mang sẽ bị xuất huyết.
Ở cá trắm cỏ cỡ lớn, khi mắc bệnh sẽ thấy xuất huyết nhiều ở gốc tia vây và bụng, hậu môn đỏ. Khi bóc da cá bệnh sẽ thấy cơ của toàn thân xuất huyết, đây là dấu hiệu rất đặc trưng. Gan thận, lá lách cũng bị xuất huyết. Ruột không có thức ăn, thành ruột xuất huyết màu đỏ thẫm nhưng không bị rữa nát.
Trị bệnh bằng Formol với liều lượng 25 ml/m3 nước, tắm cho cá liên tục 3 - 5 ngày, kết hợp dùng thuốc kháng sinh Erythromycine trộn với thức ăn, liều lượng 10 - 12 g/100 kg cá/ngày, cho cá ăn liên tục trong 5 - 7 ngày. Nên bổ sung Vitamin C 5 g/kg thức ăn, cho ăn liên tục 7 - 10 ngày để tăng cường sức đề kháng, kích thích cá ăn mạnh, tăng cường tiêu hóa thức ăn.
Bệnh rận cá
Tác nhân gây bệnh là các loại rận cá bám vào toàn thân cá, hút các chất nhờn, cá hoạt động bơi lội liên tục, không định hướng, bắt mồi giảm. Khi cá bị bệnh dùng Iodine với liều lượng 2 g/m3 nước, tắm cho cá liên tục 3 - 5 ngày. Hoặc tắm bằng thuốc tím KMnO4 nồng độ 10 g/m3 trong 30 phút.
Trong thời gian điều trị bệnh, nên giảm khoảng 30 - 50% lượng thức ăn.
Nguyễn Nhung (Thủy sản Việt Nam)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.