1. Một số khái niệm chung
Quá trình sinh trưởng, phát triển của ngô chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Từ nảy mầm, ra lá đến xuất hiện mô ở các cơ quan sinh sản.
+ Thời kỳ nảy mầm (từ gieo đến 3 lá thật):
- Phụ thuộc nhiều vào chất dinh dưỡng của nội nhũ.
- Sau khi có 3 lá thật, lượng dinh dưỡng có trong nội nhũ hạt, cây non chuyển từ sống nhờ dinh dưỡng trong hạt sang tìm kiếm thức ăn từ đất và dinh dưỡng bổ sung.
+ Thời kỳ từ 3 lá đến phân hóa hoa:
Cây ngô cần độ ẩm đất từ 65 – 75%, tơi xốp, đủ oxy cho rễ phát triển… cần đủ dinh dưỡng. Bón thúc kịp thời ở giai đoạn 3 – 4 lá.
Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Lá và cơ quan sinh sản phát triển mạnh – xuất hiện nhị cái.
+ Thời kỳ phân hóa hoa – trỗ cờ:
Cây ngô lớn nhanh, phân hóa tạo các bộ phận hoa cờ và bắp – quyết định năng suất ngô. Lá và đốt phát triển nhanh – cuối giai đoạn thoát bông cờ khỏi bẹ lá. Cần bón thúc, kết hợp xới đất và vun luống lên cao cho ngô.
+ Thời kỳ nở hoa (trỗ cờ, tung phấn, phun râu):
Diễn ra trong khoảng 10 – 15 ngày, ngô lai tập trung trong khoảng 7 – 10 ngày. Ngô tung phấn, nhận phấn, thụ tinh. Nhiệt độ thích hợp 22 – 28oC, nhiệt độ <13oC và >35oC hạt phấn mất sức sống và chết. Độ ẩm không khí thích hợp là 80%, độ ẩm đất thích hợp 80% độ ẩm bão hòa.
+ Thời kỳ chín (thụ tinh đến chín):
Thời kỳ này kéo dài 30 – 45 ngày tùy từng giống, trong đó:
- Chín sữa (10 – 15 ngày),
- Chín sáp (10 – 15 ngày),
- Chín hoàn toàn (10-15 ngày).
Thời kỳ chín, các chất dinh dưỡng vận chuyển từ lá vào hạt; vai trò quang hợp của bộ lá vẫn quan trọng, 60 – 80% sản phẩm quang hợp từ lá vận chuyển vào hạt; yêu cầu nhiệt độ của thời kỳ này là 20 – 25oC, ẩm độ đất là 60 – 70% độ ẩm bão hòa.
2. Đất và thời vụ trồng ngô
2.1 Đất trồng ngô
Cây ngô thích nghi với nhiều loại đất khác nhau, nó có thể trồng được trên đất feralit và feralit mùn trên núi cao như ở Quản Bạ, Hà Giang. Ngô sinh trưởng tốt và cho năng suất cao trên đất đen đá vôi (cao nguyên Nà Sản, Mộc Châu, Sơn La), ngô cũng cho năng suất cao trên đất phát triển trên đá bazan ở Đăk Lăk. Ở đồng bằng, ngô có thể trồng được và cho năng suất cao trên phù sa sông, đất bạc màu, đất phèn sau 2 vụ lúa. Nhiều diện tích ngô được trồng trên đất bãi bồi ven sông.
2.2 Giống và thời vụ trồng
Ngô phân bố rộng trên phạm vi toàn quốc, tùy theo điều kiện khí hậu mà thời vụ gieo trồng ngô khác nhau ở các vùng, song chủ yếu có các vụ chính là: đông xuân, xuân hè và thu đông.
2.2.1. Giống ngô
Giống ngô được phân theo 6 nhóm giống: Giống ngô tự thụ phấn, giống ngô lai quy ước, giống ngô lai không quy ước, ngô nếp, ngô đường và ngô rau. Mỗi giống có thời gian sinh trưởng khác nhau ở các vụ trồng trong năm.
Dưới đây là một số giống ngô đang được trồng phổ biến hiện nay trong vụ đông với thời gian sinh trưởng như sau:
- Nhóm giống ngô tự thụ phấn:
- Nhóm giống ngô lai quy ước.
- Nhóm giống ngô không quy ước.
- Nhóm giống ngô nếp.
- Nhóm giống ngô đường.
- Ngô rau.
2.2.2. Thời vụ gieo trồng ngô đông
- Vụ thu gieo vào cuối tháng 7 đầu tháng 8.
- Vụ thu đông ở miền núi nên gieo trước 25.8 để có năng suất cao.
- Vụ đông nên kết thúc trồng trước ngày 30.9 (chậm nhất đến 5.10 đối với giống ngắn ngày). Đối với vụ đông ở phía Bắc nếu gieo sau 20.9 thì phải làm bầu.
3. Lượng phân bón NPK-S Lâm Thao cho ngô đông (bảng)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.