Ký ức những ngày rong ruổi làm mẫu cho cha
Nhà văn Nguyệt Tú kể: “Năm ấy, tôi mười bốn tuổi, vừa thi đậu vào trường cấp 2. Cha thưởng cho tôi bằng chuyến cùng đi lấy phác thảo vẽ tranh ở cửa Sót, vùng biển Hà Tĩnh. Trên một con thuyền nhỏ, cha tôi, tôi, hai vợ chồng ông chủ đò và cô con gái nhỏ trạc tuổi tôi. Con thuyền rời bến Tân Giang, đi dọc bờ sông, ra đến cửa biển. Trời vừa rạng đông.
Nhà văn Nguyệt Tú và cha mình - danh họa Nguyễn Phan Chánh thời trẻ
Cha lấy phác thảo cảnh rạng đông trên biển, gọi tôi cùng ngồi xem và nói: “Con hãy nhớ cảnh này để khi nào cha vẽ lên lụa thì nhắc cha”. Lúc lên lụa bức tranh, tôi ngồi cạnh cha, trong đầu vẫn nhớ như in khung cảnh rạng đông với mây trời nhiều màu sắc, hồng, đỏ, tím, vàng chuyển đổi từng giây phút. Mặt trời chiếu lên, sóng biển dạt dào, sống động. Tôi biết, cha muốn tôi cùng cảm thụ thiên nhiên và cùng đóng góp vào sự hoàn thiện của bức tranh”.
Nhắc đến những tác phẩm nổi tiếng của cha mình, nhà văn Nguyệt Tú kể tiếp: “Lần ấy, cha đưa tôi ra bãi biển cùng con gái chủ thuyền. Họa sĩ lấy phác thảo hai chúng tôi nhặt vỏ sò. Từ buổi đi đó, cha tôi cho ra đời bức “Cô gái ngồi trước biển” đem về trưng bày trong cuộc triển lãm năm 1938. Các bức “Cô gái trên cành đào”, “Những cô gái dưới giàn hoa thiên lý”, cha tôi đều lấy mẫu vẽ từ các thiếu nữ tuổi 14, 15 như tôi và các bạn tôi. Nhìn thấy tôi và cô bạn hàng xóm chơi trốn tìm trong vườn, ông nảy ý định vẽ bức “Trốn tìm”.
Tôi mặc áo dài làm mẫu cho cha, chân mỏi nhừ nhưng vẫn cố ngồi cho cha vẽ từng nếp gấp của chiếc áo. Trên tranh, cô gái đi trốn cố thu mình lại trong chiếc áo dài trắng. Từng mảng màu trắng của tà áo với các nếp gấp uyển chuyển khiến bức tranh sống động hẳn lên. Khi cha vẽ xong, chúng tôi sững sờ nhìn bức tranh, không nhận ra hai thiếu nữ trong tranh chính là mình...
Bức lụa “Hun thuyền”, tôi cũng làm mẫu cho cha. Lần ấy, chúng tôi đi vào xóm chài lúc mọi người đương hun khói cho những chiếc thuyền mới đóng. Ánh lửa trong đêm sáng rực, khói mịt mùng, cay sè mắt. Mặc tôi giục về vì đã khuya, cha vẫn miệt mài ngồi lấy phác thảo…
Qua bao năm tháng, mảng màu, nét bút trên tranh dù có phôi phai nhưng kỷ niệm những ngày ngồi làm mẫu vẽ cho cha và được theo cha đi vẽ, tôi không bao giờ quên. Khi tôi đã có gia đình, cha tôi vẫn bảo: “Để thầy vẽ cho con một bức tranh”. Tiếc rằng vì hồi đó thiếu lụa nên bức chân dung mới chỉ được vẽ trên giấy”.
Người họa sỹ và tinh thần tự tôn dân tộc
Hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh sinh năm 1892, tại Thạch Hà, Hà Tĩnh. Hơn 10 tuổi, cậu bé Chánh đã nổi tiếng khắp vùng là người hay chữ và viết chữ thảo đẹp. Năm 14 tuổi, Nguyễn Phan Chánh đã kiếm được những đồng tiền đầu tiên phụ giúp gia đình nhờ việc viết chữ, vẽ tranh thờ và tranh cuộn bán tại các phiên chợ quê.
Cùng với đam mê cháy bỏng về nghệ thuật thư pháp, hình ảnh về miền quê nghèo và cuộc sống nông thôn Việt Nam in dấu trong tâm trí của Nguyễn Phan Chánh, để rồi sau này trở thành một "nỗi ám ảnh nghệ thuật", in dấu trong tất cả sáng tác của ông.
Năm 1922, Nguyễn Phan Chánh tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Đông Ba, Huế nhưng không theo nghề dạy học. Năm 1925, khi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (một thành viên của Đại học Đông Dương) chiêu sinh khoá đầu tiên, Nguyễn Phan Chánh là người duy nhất thuộc dải đất miền Trung đỗ vào khoá 1 (1925 - 1930).
Nhà vă̆n Nguyệt Tú và chồng bà - cố Chủ tịch Quố̂́c hội Lê Quang Đạo
Trong nhật ký của mình, hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh đã tự bạch: “Tuy học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương 5 năm, song mãi đến năm thứ ba tôi mới học vẽ lụa. Ông đốc trường có cho sinh viên xem những tranh lụa của Trung Quốc và Nhật Bản. Tranh của Nhật lòe loẹt, tôi thích những màu đằm thắm, êm dịu, như màu lam đậm trong tranh Trung Quốc hơn.
Trong dịp đấu xảo ở Paris, tôi có khá nhiều tranh lụa được đưa sang trưng bày, có 4 bức in trên báo Illustrations: “Chơi ô ăn quan”, “Lên đồng”, “Rửa rau cầu ao”, “Em cho chim ăn”. Tôi muốn nói riêng về bức tranh “Chơi ô ăn quan”, vì tranh này được nhiều người chú ý. Các em khoảng 13, 14 tuổi ở làng Kim Liên đã ngồi cho tôi vẽ. Các em chít khăn mỏ quạ, quần áo nâu sồng là điểm đặc sắc của Việt Nam hồi bấy giờ.
Hồi ấy, chúng tôi thuê thuyền đi từ thị xã, loanh quanh theo dòng sông xuống, lấy cảnh đền làng, cầu ao, xóm chài… rồi thuyền đến chân núi, ra cửa bể vẽ cảnh “Tựa vách núi”, “Hun thuyền”, “Thuyền đánh cá”… Đi theo tôi, có cô con gái lớn đã 15, 16 tuổi và con gái người chủ thuyền 13, 14 tuổi để làm mẫu vẽ cho các bức tranh “Thiếu nữ tựa núi trông ra bể Đông”, “Chị em nhặt vỏ ốc trên bãi cát…”".
Theo nhà văn Nguyệt Tú, cha mình là người có tài nhưng cũng khái tính và bất cần. Ông đã được mời làm giáo sư giảng dạy môn Mỹ thuật tại trường Bảo Hộ (trường Bưởi sau này). Với mức lương 100 đồng Đông Dương mỗi tháng - một số tiền rất lớn ở thời điểm đó, Nguyễn Phan Chánh đưa vợ con và mẹ từ Hà Tĩnh ra Hà Nội. Gia đình sống trong ngôi nhà rộng rãi tại phố Phó Đức Chính và nuôi 4 người giúp việc.
Thế nhưng, năm nhà văn Nguyệt Tú 8 tuổi, một biến cố xảy ra. Một hôm, bà nhìn thấy cha mình mặt rất buồn rồi cụ nói với vợ “Bể niêu rồi!”. Và sau đó, gia đình bà chuyển từ Hà Nội về lại quê nhà Hà Tĩnh vì họa sỹ… bị thất nghiệp. Lý do là khi viên Tổng giám thị trường Bảo Hộ yêu cầu ông vẽ lại một bức tranh theo ý mình thì Nguyễn Phan Chánh nhất định không nghe theo. Trong sáng tạo nghệ thuật, ông ghét sự gượng ép mà yêu thích sự tự do, phóng túng và tôn trọng bản sắc dân tộc.
Bóng dáng người vợ dấu yêu
Những tháng ngày nuôi 6 miệng ăn trong gia đình là cả một sự khó nhọc đối với danh hoạ Nguyễn Phan Chánh cũng như người vợ tảo tần. Đó cũng là thời điểm ông vẽ tranh nhiều nhất. Ông vẽ để mở triển lãm ở Hà Nội và có tiền để đưa vợ con trở ra Hà Nội. Một mặt khác, tại quê nhà, ông sống bằng nghề vẽ truyền thần. Tiền công vẽ truyền thần được trả bằng gạo, ngô, khoai sắn. Vợ ông tần tảo đêm ngày nuôi gia đình bằng nghề hàng xáo.
Cuộc sống quá vất vả cũng là một lý do khiến vợ ông mất khi bà chỉ mới 40 tuổi, để lại nỗi nhớ khôn nguôi cho người họa sỹ tài hoa. Sau này, họa sỹ Nguyễn Phan Chánh đã vẽ bức tranh lụa “Cô hàng xén” từ những ký ức về người vợ yêu của mình. Bức tranh vẽ một thiếu nữ ngồi đọc sách giữa hai chiếc sọt gánh hàng xén. Gương mặt bầu bầu, xinh xắn, hiền hậu của cô hàng xén phảng phất nét mặt vợ ông hồi còn trẻ. Tác phẩm này đã đánh dấu sự trở lại với tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh sau kháng chiến chống Pháp.
Không chỉ xuất hiện trong bức tranh “Cô hàng xén”, thời gian còn sống, vợ danh họa đã làm mẫu trong khá nhiều tác phẩm của ông và bao giờ cũng là gương mặt trái xoan thanh tú, đôi mắt lá răm và sống mũi thanh. Trong cuộc đời họa sỹ, ông đã vẽ nhiều phụ nữ ở độ tuổi đẹp nhất - tuổi thanh xuân và vợ ông là một trong số đó.
Bức tranh “Người bán gạo” có mức đấu giá cao kỷ lục. Trong bức tranh, ta chỉ nhìn thấy người bán gạo phía sau lưng. Theo nhà văn Nguyệt Tú, thiếu phụ mặc áo trắng đang đứng đong gạo chính là mẹ bà. Chiếc khăn vấn vành nâu, mái tóc đen rẽ giữa, nét mặt thùy mị, thanh tú. Bức tranh rất đẹp, bố cục chặt chẽ, các mảng màu trắng nâu ấm bình dị, dân dã rất Việt Nam, rất Nguyễn Phan Chánh.
Thiên Kim (An Ninh Thủ Đô)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.