Theo quyết định số 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, CNHT được hiểu là “các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh”.
Các ngành CNHT ưu tiên phát triển là: dệt may, da giày, điện tử – tin học, lắp ráp ôtô, cơ khí chế tạo và công nghiệp công nghệ cao.
Ông Lê Hoài Quốc, trưởng ban quản lý khu Công nghệ cao TP.HCM (SHTP) đánh giá, các doanh nghiệp công nghệ cao thường nhắm các điểm đến có hệ thống các ngành CNHT phát triển để giảm thiểu chi phí và đảm bảo nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào không bao giờ bị gián đoạn.
“Nhưng do Việt Nam mới phát triển công nghệ cao trong khoảng năm năm gần đây, hệ thống các ngành CNHT hầu như không có hoặc còn rất manh mún đã làm chi phí đầu tư tại Việt Nam cao hơn. Hiện tại các doanh nghiệp công nghệ cao nước ngoài phải nhập 90% thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào từ nước ngoài.
Năng lực của CNHT cho các ngành công nghệ cao ở Việt Nam chỉ mới ở dạng tiềm năng”, ông Quốc chia sẻ. Cũng theo ý kiến của vị trưởng ban SHTP, khi CNHT trong nước yếu kém đồng nghĩa với việc phần lớn giá trị gia tăng tạo nên thuộc về các nhà sản xuất và các nhà cung ứng nước ngoài.
Nhiều chuyên gia cho rằng, CNHT không chỉ là “công nghiệp phụ trợ”! Nhưng trên thực tế, CNHT Việt Nam trong mối quan hệ với các nhà sản xuất nước ngoài hiện nay chỉ đóng vai trò “phụ trợ” với những sản phẩm lặt vặt, công nghệ thấp như đóng gói, bao bì hoặc những linh kiện như ốc vít, vè nhựa…
Trong một khảo sát do trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế – xã hội quốc gia (NCEIF, bộ Kế hoạch và đầu tư) thực hiện năm 2013, TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu, dù là khu vực có nền sản xuất phát triển nhưng CNHT phát triển rất chậm so với nhu cầu.
Tỷ lệ số lượng các doanh nghiệp CNHT tại đây tham gia vào chuỗi sản xuất máy móc rất thấp, chỉ số bình quân là 2,07, trong đó thấp nhất là ngành cơ khí: 1,7 và cao nhất là ngành ôtô: 5,0. Nhiều nhà sản xuất than phiền, các doanh nghiệp Việt Nam chậm đổi mới công nghệ, không đáp ứng được yêu cầu cung ứng linh kiện của các nhà lắp ráp, sản xuất thành phẩm.
Còn theo khảo sát của SHTP, các doanh nghiệp CNHT Việt Nam còn rất hạn chế về năng lực công nghệ để tham gia chuỗi giá trị cùng các nhà sản xuất nước ngoài.
Ông Quốc than phiền: những nhà cung ứng bao bì chống tĩnh điện nội địa mới chỉ đạt tiêu chuẩn của Việt Nam, chưa đạt tiêu chuẩn của các nhà sản xuất nước ngoài; ngành xi mạ của TP.HCM còn yếu, chưa đạt yêu cầu về chất lượng; chưa có doanh nghiệp cơ khí chuyên sản xuất các chi tiết có chống tĩnh điện, sản phẩm nhựa nhiều màu, sản phẩm nhựa công nghiệp theo tiêu chuẩn UL…
Hiện nay, Intel chỉ mua tại thị trường nội địa đối với các nguyên vật liệu gián tiếp (bao bì, bàn cho kỹ sư, xe đẩy, đồ gá…) với tỷ lệ 10%, còn lại vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Jabil hiện có hơn 200 nhà cung ứng trong nước nhưng chỉ chiếm 10% giá trị sản phẩm.
Ông Trần Tiến Phát, giám đốc điều hành công ty TNHH Datalogic Scanning Việt Nam cho biết, tỷ lệ phụ kiện mua từ các doanh nghiệp trong nước có tăng, từ 3,2% (2012) lên 3,69% (quý 1.2014) trên tổng giá trị nhập khẩu phụ kiện của doanh nghiệp, chủ yếu là những mặt hàng có giá trị thấp: bao bì, linh kiện nhựa…
Ông Phát đánh giá chất lượng của sản phẩm CNHT do các doanh nghiệp trong nước sản xuất không ổn định, công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu, hệ thống quản lý chất lượng chưa hiệu quả, giá cả cao…
Ông Vũ Văn Hoà, trưởng ban quản lý Các khu chế xuất và công nghiệp TP.HCM (HEPZA) cho biết, có 371 doanh nghiệp trong nước tham gia CNHT cho các ngành: cơ khí, dệt may, bao bì…
Sản phẩm CNHT của doanh nghiệp trong nước có giá trị gia tăng thấp và hầu hết chưa tham gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Nguyên nhân là do nhiều doanh nghiệp trong nước sử dụng công nghệ, máy móc cũ, lạc hậu, nên khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng kém, giá thành sản phẩm cao, ông Hoà nhận xét.
“Chưa xác định được sản phẩm chủ lực”
Các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vẫn quen ban hành cơ chế chính sách một cách dàn trải, thường xác định rất nhiều yếu tố có liên quan đến đối tượng cần phát triển và hỗ trợ nhưng không có chọn lọc. Ngay cả sau khi chính sách được ban hành, việc thực thi chính sách đó cũng chưa có quan điểm thống nhất. Kết quả là việc thực thi chính sách không thành công. Do vậy, dù có tổ chức hàng trăm hội thảo, cũng chỉ là nơi để các doanh nghiệp trong và ngoài nước than vãn với nhau hơn là tìm lối thoát cho ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) phát triển như mong đợi của doanh nghiệp.
Câu hỏi được đặt ra là các doanh nghiệp trong nước có thể phát triển CNHT được không? Câu hỏi trên đã được ông Lê Hoài Quốc trả lời, các yếu tố ảnh hưởng đến thành công của các nhà cung ứng bao gồm: thị trường đủ lớn, nguồn nhân lực kỹ thuật cao, cơ chế chính sách phù hợp và ổn định, liên kết thông tin hiệu quả giữa các nhà lắp ráp và nhà cung cấp, các tiêu chuẩn công nghiệp và tiêu chuẩn an toàn ngang tầm khu vực và nguyên vật liệu sẵn có. Trong đó, theo các chuyên gia, thị trường là yếu tố tiên quyết, nếu không có thị trường đủ lớn, mọi cố gắng phát triển các yếu tố khác không đủ để phát triển CNHT. Thực tế ngành công nghiệp xe máy đã chứng minh nhận định trên là đúng. Hiện nay, công nghiệp sản xuất xe máy tại Việt Nam là ngành có tỷ lệ nội địa hoá cao nhất, với tỷ lệ khoảng 70% vì Việt Nam có thị trường tiêu thụ xe máy lớn, khoảng 3 triệu xe/năm (năm 2013).
Ngoài yếu tố quan trọng là thị trường, theo ông Hoà, Nhật Bản và Hàn Quốc đều xem CNHT có tầm quan trọng đặc biệt để phát triển công nghiệp trong nước, là một yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia. Hai quốc gia trên xây dựng sản phẩm chủ lực quốc gia, từ đó định hướng chiến lược phát triển CNHT, trong đó vật liệu là ngành công nghiệp lõi. “Chính sách của hai quốc gia trên đều hướng đến phân công: các doanh nghiệp lớn sản xuất thành phẩm, còn doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò CNHT. Trong khi đó Việt Nam chưa xác định được sản phẩm chủ lực để định hướng chiến lược phát triển CNHT, chưa nhận thức được chuỗi cung ứng (đồng thời là chuỗi giá trị) của các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, ông Hoà chia sẻ thêm. Ông Lê Văn Khoa, giám đốc sở Công thương TP.HCM, đề xuất với TP.HCM thành lập trung tâm phát triển CNHT với các chức năng: xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT, tạo cầu nối gắn kết giữa CNHT trong nước với các tập đoàn nước ngoài, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, tư vấn đầu tư ngành CNHT.
Chính sách đã ban hành dày đặc. Giải pháp đã nói nhiều… Nhưng làm như thế nào vẫn chưa thấy rõ nét, nếu có chỉ là sự xoay trở, tự thân vận động của doanh nghiệp.
Song Minh
Gia Vinh (Thế giới Tiếp thị)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.