Cụ thể, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hải Dương đã hoàn tất kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đến Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp đề nghị truy tố 2 đối tượng gồm: Phạm Quốc Huy (SN 1985) và Nguyễn Thị Anh Thư (SN 1988), cùng trú tại ở số 165, Nguyễn Hữu Cầu, phường Ngọc Châu (TP.Hải Dương, Hải Dương).
Đáng chú ý, Huy là nhân viên ngân hàng, và đối tượng này trộm tiền tại các cây ATM, hành vi này được hắn che dấu rất lâu trước khi bị phát hiện.
Huy làm việc tại tại ngân hàng từ năm 2011, đến năm 2015, Huy được phân công là thành viên của Bộ phận tiếp quỹ ATM. Theo quyết định được phân công, Huy làm trong bộ phận tiếp quỹ, có nhiệm vụ cùng một số cán bộ quản lý chìa khóa để mở máy ATM.
Lợi dụng sự sơ hở trong quá trình tiếp quỹ, Huy âm thầm theo dõi và lên kế hoạch thực hiện.
Về gia đình, Huy và Thư kết hôn với nhau một thời gian dài mà không có con. Vì sợ bố mẹ hai bên lo lắng, vợ chồng Huy, Thư âm thầm vay tiền của nhiều người với mức lãi suất cao để đi chữa bệnh.
Trong số đó có trường hợp của chị Nguyễn Thị Thanh H (trú tại Phạm Ngũ Lão, TP.Hải Dương).
Tính đến cuối năm 2018, Huy và Thư đã vay của H là hơn 1 tỷ đồng, lãi suất 5.000 đồng/triệu/ngày; vay của Nguyễn Thị N (SN 1960 ở Trần Phú, TP.Hải Dương) từ năm 2017 nhiều lần với số tiền khác nhau, lần vay trước đã thanh toán xong sau đó vay tiền các lần khác. Tính đến cuối năm 2018, vợ chồng Thư đã vay của N khoảng 600 triệu.
Do sức ép nợ nần, vợ chồng Huy đã làm liều khi trộm cắp tiền tại các cây ATM trong quá trình đối tượng này đi tiếp quỹ.
Ngoài ra, anh Phạm Văn H (SN 1984 ở TP.Hải Dương) đã đứng ra vay tiền của một số người cho vợ chồng Huy, Thư 650 triệu đồng. Việc 2 vợ chồng Huy vay tiền, bố mẹ hai bên đều không được biết.
Tại cơ quan điều tra, vợ chồng Huy, Thư khai các khoản tiền gốc và lãi, thường xuyên bị thúc ép đòi nợ nên họ mất khả năng thanh toán.
Đầu tháng 11/2017, Huy nảy ý định trộm cắp tiền tại các cây ATM để trả nợ. Việc này Huy đã bàn với vợ, tuy nhiên vợ Huy không can ngăn mà còn tiếp tay cho chồng thực hiện hành vi phạm tội.
Lần đầu tiên vào khoảng tháng 12/2017, Huy trộm 200 triệu đồng ở cây ATM mang về đưa cho Thư.
Trót lọt lần đầu, nhiều lần sau Huy tiếp tục tái diễn hành vi trộm cắp, số tiền bị Huy lấy đi hơn 6 tỷ đồng. Các khoản tiền lấy được, một phần vợ chồng Huy dùng để trả nợ, một phần Huy dùng tiêu cá nhân.
Hành động vi phạm của Huy đã thực hiện đã lâu mà không bị phát hiện lập tức bởi vì đối tượng đã bù tiền vào cây ATM đã lấy. Số tiền bù này theo lời khai của nam nhân viên ngân hàng, vợ chồng hắn đi vay để bù vào.
Về cách thức lấy tiền, theo cơ quan điều tra, lợi dụng sơ hở trong quá trình tiếp quỹ, Huy đã lên kế hoạch ra tay.
Chìa khóa các máy ATM do Hoàng Thị Thuần quản lý, Huy nhận thấy khâu này có sơ hở. Thuần để chìa khóa của từng máy trong từng bìa giấy riêng và cất trong hòm tôn, khóa lại. Chìa khóa hòm này lại để cùng với các chìa khóa khác trong giỏ bằng nhựa đặt trên mặt bàn, còn hòm tôn đựng chìa khoá máy ATM để trên mặt két.
Tại cơ quan, do có nhiều việc nên Thuần không thể bao quát hết được, từ đó Huy có thể lấy trộm chìa khóa hòm tại giỏ để mở hòm tôn lấy bì đựng khóa máy ATM, đồng thời lấy trộm luôn cả chìa khóa mở khay tiền trong hòm đó.
Huy chỉ lấy tiền mệnh giá 500 nghìn đồng tại các cây ATM, các mệnh giá khác đối tượng này không hề động đến. (Ảnh minh hoạ)
Hoặc Huy có thể báo máy hỏng để tự mình đi sửa, từ đó Thuần lấy chìa khóa ra đưa cho Huy.
Thủ đoạn lấy trộm chìa khoá khay tiền của Huy được thực hiện như sau: Tại cơ quan khi nạp tiền vào khay xong, thành viên 2 cất chìa khóa khay tiền vào ngăn kéo.
Huy tranh thủ lúc thành viên 2 không để ý sẽ lấy trộm chìa khóa khay tiền để mang theo lúc đi tiếp quỹ tại cây ATM. Khi đã có chìa khóa máy ATM và chìa khóa khay tiền, Huy sẽ mở được máy ATM.
Hai là Huy biết mã số khóa két từng máy ATM. Huy biết được vì khi nhập máy về Huy là người nhận bàn giao và đi lắp đặt. Từ khi lắp đặt máy ATM, các máy đều đặt mã số khóa két là 40 - 60 - 40.
Các lần đi tiếp quỹ, Huy đứng phía sau cán bộ nhập mã số khoá két nên thấy mã số.
Bên cạnh đó, giấy niêm phong tại các khay đựng tiền rách khi mang về cơ quan cũng không ai để ý vì vết đứt nhỏ như sợi chỉ, phải để ý kỹ mới biết được. Tem niêm phong tại ổ khóa định vị do Huy là người cắm chìa khóa vào ổ khóa vặn trước rồi mới đến thành viên 2 nhập mã số khóa két. Do đó, thành viên 2 không biết hoặc không để ý đến tem niêm phong ổ khóa định vị bị rách.
Khi lấy được chìa khoá máy ATM và chìa khoá khay tiền, tại cây ATM, Huy mở khóa buồng máy ra, rút dây camera, tắt thiết bị báo động, ngắt cầu dao điện để máy không truyền dữ liệu đi.
Huy mở máy, rút tiền mệnh giá 500.000đ một lượng nhất định, sau đó khóa khay tiền lại cho vào két rồi khóa máy lại, khởi động máy hoạt động bình thường. Hắn trả lại chìa khoá về chỗ cũ tại ngân hàng.
Lần sau, Huy sẽ lấy tiền ở máy ATM khác với số lượng nhiều tiền hơn, một phần sẽ bù lại số tiền vào máy ATM đã lấy trộm từ trước, phần còn lại để tiêu xài. Cứ như thế Huy thực hiện trộm cắp tiền trong 5 máy ATM quay vòng nhau trong thời gian dài.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.