Máy bay P-3 Orion đã phục vụ trong Hải quân Mỹ từ những năm 1960 với nhiệm vụ chủ yếu là tuần tiễu chống ngầm. Biến thể hiện đại nhất của loại máy bay này là P-3C được bàn giao cho Hải quân Mỹ từ 1969.
 |
P-3 Orion thả mồi bẫy nhiệt. |
Đến nay, P-3C đã được nâng cấp nhiều lần để phù hợp cho chiến trường hiện đại. Ngoài ra, các cụm thiết bị riêng như thiết bị liên lạc, định vị, trinh sát thủy âm và điều khiển vũ khí của P-3C cũng được nâng cấp trong các chương trình riêng biệt để thỏa mãn yêu cầu của Hải quân Mỹ.
Loại máy bay này có khả năng mang nhiều loại vũ khí dành cho nhiều loại nhiệm vụ khác nhau cả trên biển và trên bộ với tổng khối lượng 9 tấn như tên lửa chống hạm AGM-84H/K Harpoon, AGM-84E SLAM, tên lửa đối đất AGM-65F Maverick, ngư lôi Mk-46, Mk-50, Mk-54...
Một phi đội tiêu chuẩn vận hành máy bay P-3C Orion có 11 người, bao gồm 3 phi công, 2 sĩ quan giám sát bay hải quân, 2 kỹ thuật viên bay, 3 sĩ quan vận hành thiết bị trinh sát và một kỹ thuật viên chung.
 |
Vũ khí trang bị cho P-3C Orion. |
Với nhiệm vụ chủ yếu là chống ngầm, P-3C được trang bị rất nhiều thiết bị trinh sát hiện đại như sonar DIFAR, thiết bị phát hiện điểm từ trường bất thường (MAD)... Các thông tin thu thập được sẽ được chuyển đến máy tính trung tâm, từ đó sẽ phân tích, lưu trữ, gửi đến các cấp chỉ huy hay vận hành tự động các vũ khí trên máy bay.
Gói nâng cấp đầu tiên của P-3C được thực hiện năm 1975 chủ yếu nhằm vào nâng cấp máy tính xử lý thông tin cùng phần mềm. Gói nâng cấp thứ hai năm 1977 được lắp đặt cảm biến hồng ngoại, nâng cấp hệ thống tiếp nhận thông tin thủy âm, nâng cấp khả năng sử dụng tên lửa chống hạm Harpoon.
Gói nâng cấp thứ ba của P-3C được thực hiện từ giữa những năm 1980 với rất nhiều nội dung so với 2 gói nâng cấp trước, bao gồm bộ vi xử lý tín hiệu thủy âm IBM Proteus mới.
Hệ thống xử lý tín hiệu cũ chỉ có thể nhận tín hiệu từ sonar trên 31 kênh sóng khác nhau, trong khi hệ thống được nâng cấp có thể tiếp nhận tín hiệu trên 99 kênh với khả năng chuyển kênh bất kể lúc nào, đảm bảo tín hiệu truyền về được tiếp nhận và xử lý hoàn toàn trong thời gian nhanh nhất.
 |
P-3C Orion thả phao định vị. |
Ngoài ra, bản nâng cấp thứ ba này cũng có thêm nhiều nội dung quan trọng khác như bộ xử lý tín hiệu đơn (SASP) cho phép nhanh chóng phân biệt tín hiệu thu về là tầu ngầm hay tạp âm đơn thuần của đại dương. Tín hiệu thu được từ nhiều phao thủy âm sẽ được phân tích và hiển thị cùng lúc, cho phép người vận hành đánh giá dễ dàng và chính xác tình hình.
Hệ thống nhận tín hiệu thủy âm của bản nâng cấp này gồm bốn antenna được bố trí dưới bụng máy bay theo hình tinh thể kim cương, được điều khiển bởi máy tính CP-901 cho phép tăng tín hiệu đường truyền VHF và giảm nhiễu.
Ngoài các nhiệm vụ chống ngầm, một số máy bay P-3C được nâng cấp để hỗ trợ mặt đất trên chiến trường gồm radar địa hình, cảm biến quang-điện tử với khả năng kết nối thời gian thực cho các nhiệm vụ trinh sát, tuần tiễu.
 |
P-3 Orion có chiều dài 35,6 mét, cao 10,3 mét với sải cánh 30,4 mét, |
Hiện nay, Mỹ đang hoàn thiện và chuẩn bị đưa máy bay chống ngầm P-8 Poseidon vào biên chế nên một số máy bay P-3 Orion sẽ được chuyển đổi thực hiện các nhiệm vụ khác, ít quan trọng hơn như giám sát chiến trường hay huấn luyện, hoặc được rao bán.
Ngoài Mỹ, Nhật Bản cũng có nhu cầu thay thế 100 chiếc P-3 Orion với thiết bị điện tử nội địa bằng máy bay chống ngầm Kawasaki P-1.
Cùng với việc nới lỏng xuất khẩu vũ khí, trong tương lai, loại máy bay này chắc chắn sẽ đến tay nhiều nước hơn ngoài khối đồng minh của Mỹ.
P-3 Orion có chiều dài 35,6 mét, cao 10,3 mét với sải cánh 30,4 mét, khối lượng cất cánh tối đa 63,45 tấn, sử dụng 4 động cơ cánh quạt T-56-A-13 công suất 4.600 mã lực/động cơ. Tốc độ tối đa của máy bay là 760 km/h, tầm hoạt động tới 4.400 km (khi tuần tiễu ở tốc độ 600 km/h).
Minh Châu (tổng hợp)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.