Các vấn đề thu hút nhiều ý kiến nhất là xác định đối tượng được miễn, giảm mức và thời hạn miễn, giảm.
|
Việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, theo các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội là rất cần thiết. |
Xác định đúng, rõ đối tượng được miễn, giảm
Theo báo cáo thẩm tra, Uỷ ban Tài chính- Ngân sách nhận thấy, các quy định về đối tượng miễn, giảm về cơ bản giữ nguyên như quy định trong Nghị quyết số 15/2003/QH11 hiện hành. Tuy nhiên, đến nay đã qua một quá trình khá dài triển khai áp dụng chính sách (17 năm thực hiện chính sách miễn, giảm theo Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp và 7 năm thực hiện theo Nghị quyết số 15) nên cần có sự điều chỉnh cho phù hợp tình hình mới.
Uỷ ban Tài chính - Ngân sách đề nghị: Việc miễn, giảm thực chất là chính sách ưu đãi về thuế, nên cần có trọng tâm, trọng điểm trong thể chế hoá chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, tập trung vào những lĩnh vực cụ thể.
Trao đổi về vấn đề này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận khẳng định: “Nếu không phân loại đối tượng hợp lý, trong 10 năm tới, đất đai sẽ đứng trước nguy cơ hoang hoá nặng. Vì vậy nên miễn giảm cho các cá nhân là người cao tuổi, người tàn tật, người nghèo, các hộ gia đình chính sách, còn các đối tượng khác thì giảm 50%. Nếu miễn thuế tất cả thì hơi cào bằng”.
Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Lê Quốc Dung cho rằng: “Việc thu thuế đất nông nghiệp hiện nay khác nhiều so với trước đây. Ví dụ như đất ven biển không có trong danh mục thuế nhưng nuôi ngao có thu nhập tốt. Bên cạnh đó, cần áp dụng miễn, giảm thuế đất nông nghiệp hợp lý để thu hút các nhà đầu tư”.
Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng nêu quan điểm: “Mục tiêu chính là khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Bởi vậy, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trên toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp đối với hộ nghèo; hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ là cần thiết”.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên kết luận: Diện tích đất nông nghiệp trồng lúa và làm muối, đất gắn liền với nghiên cứu khoa học và tạo giống được miễn thuế 100%; trên hạn mức được giao nhưng không vượt quá hạn mức chuyển nhượng sẽ được giảm 50% thuế; vượt hạn mức chuyển nhượng sẽ thu đủ 100% thuế.
Sẽ trình Quốc hội cả hai phương án
Thực hiện Nghị quyết số 15/2003/QH11, từ năm 2003 đến năm 2010, mỗi năm đã miễn, giảm cho 11.249.076 hộ với diện tích miễn, giảm khoảng 5.462.278ha; tổng số thuế miễn, giảm 1.851.577 tấn quy thóc, thành tiền là 2.837 tỷ đồng.
Theo tờ trình của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh, việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp được thực hiện từ năm thuế 2011 đến hết năm thuế 2020. Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Tài chính- Ngân sách cho biết, đa số ý kiến tán thành thời hạn miễn, giảm là 10 năm.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, thời hạn miễn, giảm 10 năm là tương đối dài, chỉ nên quy định cho giai đoạn 5 năm, sau đó tổng kết để sửa đổi toàn diện và ban hành một đạo luật chung về chính sách thuế đối với đất đai để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Thảo luận trong phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn cho biết nên thực hiện trong thời hạn 5 năm. Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng cũng tán thành ý kiến này và cho rằng, chính sách miễn, giảm này luôn có sự thay đổi.
Trong khi đó, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu thì tán thành việc thực hiện trong 10 năm. Đa số các ý kiến cũng ủng hộ phương án này. Kết luận vấn đề, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nói: “Sẽ trình Quốc hội cả 2 phương án để nghiên cứu, thảo luận và lựa chọn. Bản thân tôi nghiêng về phương án thực hiện trong 10 năm bởi quãng thời gian này có lẽ chưa có quá nhiều thay đổi mang tính đột biến và 45-50% dân số vẫn sống gắn với ruộng đất”.
Đức Hiếu
Vui lòng nhập nội dung bình luận.