Năm Thìn 120 năm trước, một trận bão mạnh quật ngã cả đoàn tàu hỏa tuyến đường sắt Sài Gòn-Mỹ Tho
Năm Thìn cách đây 120 năm, một trận bão mạnh quật ngã cả đoàn tàu hỏa tuyến đường sắt Sài Gòn-Mỹ Tho
Chủ nhật, ngày 18/02/2024 09:25 AM (GMT+7)
120 năm trôi qua câu chuyện kể về năm Thìn 1904 còn tư liệu sách báo, văn học dân gian...ở Nam Bộ. Năm đó, một cơn bão mạnh đến độ quật ngã một đoàn tàu của tuyến đường sắt Sài Gòn- Mỹ Tho.
“Năm Thìn bão lụt” giờ không đơn thuần là một sự kiện trong lịch sử của vùng đất Nam Bộ mà đã trở thành thành ngữ để chỉ sự việc đã diễn ra quá lâu, xưa cũ: “Ôi, chuyện hồi năm Thìn bão lụt tới giờ…!”.
120 năm trôi qua câu chuyện kể về năm Thìn 1904 còn tư liệu sách báo, văn học dân gian… Tìm hiểu về bão lụt năm Thìn để thế hệ hôm nay phòng bị tốt hơn trước những cơn thịnh nộ của thiên nhiên.
“Gò Công xiết mấy hư hao…”
Nhắc đến “Năm Thìn bão lụt”, nhiều người nghĩ ngay đến cơn bão lụt năm Giáp Thìn 1904 ở xứ Gò Công, và nhiều vùng phụ cận như Định Tường, Cần Giờ...
Đến nay, tư liệu về trận cuồng phong này không nhiều, chủ yếu thông qua văn học dân gian; chỉ duy nhất được nhắc đến trong cuốn “Gò Công cảnh cũ người xưa” của cụ Việt Cúc xuất bản thập niên 1970, sau đó được NXB Trẻ tái bản vào năm 1993.
Theo cụ Việt Cúc thuật lại, đó là ngày rằm tháng 3 năm Giáp Thìn đương mùa khô hạn, ruộng đồng nứt nẻ bỗng trời nộ cuồng phong, mây đen bao phủ từ 10 giờ sáng đến chạng vạng. Hơn 5 giờ chiều: “Bỗng xoay chiều gió từ phương Đông ào ào xô gãy cây và trốc gốc, vách nhà đổ xiêu.
Lá cây, lá lợp nhà tốc bay tứ tung, cây cối nằm la liệt”, cụ Việt Cúc hồi tưởng. Không chỉ vậy, tàu thuyền ngoài biển, trong sông bị nhấn chìm vô số, xác người, xác súc vật trôi lềnh bềnh trên sông, cảnh tượng tang thương- bình địa khởi phong ba.
Cụ Huỳnh Ngọc Liêng, người Gò Công, đã cảm tác thành thơ: “Rương xe, thùng bộng, mái lơn/ Thuyền chài, cối giã, chạy bôn trên đồng/ Xác người, xác thú chập chồng/ Sóng dồi rều dập, vun giồng lấp khe”.
Cơn bão đi qua, niềm đau ở lại. Tiếng hờ khóc vang vọng một vùng. Đàn ông tìm cây lá cất chòi ở tạm, đàn bà bòn mót lúa cho qua bữa. Ngày 19/3 âm lịch, dân làng tổ chức cuộc đi tìm chôn xác, gặp đâu chôn đó, nhiều vô kể.
Cũng cần nói thêm, đến tháng 5 năm đó, phần do người và vật chết sình trương, phần cây cỏ ẩm mục, nhà cửa ngập lụt không vệ sinh nên người dân Gò Công lại hứng họa dịch bệnh, khổ ải vô cùng.
Thống kê của chính quyền tỉnh Định Tường và Gò Công thời đó, có tới trên 5.000 người chết, hơn 80% súc vật chết và hơn 60% nhà dân bị sập trong cơn bão năm Thìn này. Từ đó, ca dao Gò Công có câu rằng: “Gặp đây mới biết em còn/ Hồi năm bão lụt anh khóc mòn con ngươi”.
Dân gian Gò Công còn lưu truyền bài thơ bão rất dài, miêu tả cảnh khốn cùng sau cơn bão lụt. Bài thơ có đoạn: “Rủ nhau dập xác cho liền/ Gặp đâu chôn đó, chớ hề ai khiêng/ Thân chết chôn rồi đã yên/ Còn người sống sót gạo tiền đâu ăn?”.
Sau bão là bệnh dịch hoành hành. Khung cảnh mà cụ Việt Cúc thuật lại thật đau xót, mất mát biết dường nào. Có gia đình, chỉ trong 10 ngày chết đến 3 người. Có nhà thì đứa em chết sớm mai, chiều tối người chị chết. Khiêng người này ra chôn rồi kế về khiêng người khác đi chôn nữa. Cụ kể: “Đầu xóm nghe tiếng cưa cây đóng quách, giữa xóm cành cạnh tiếng niêm hòm. Chết nhiều đến nỗi thiếu hòm thiếu ván để đóng quách mà chôn, thật rùng rợn kinh hoàng”.
Lời kể này càng được củng cố khi trong “Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” của cụ Nguyễn Liên Phong, Phát Toán xuất bản năm 1909, cũng ghi nhận: “Năm Thìn rủi mắc cơn giông bão/ Dựng lại bằng xưa cũng phước trời”.
Đoạn cuối của bài miêu tả về Gò Công, tác giả ghi: “Gò Công xiết mấy hư hao/ Trời sanh trời dưỡng biết sao mà phòng”.
Tác giả Huỳnh Minh trong cuốn “Gò Công xưa” đã xúc cảm khi nhắc đến sự kiện này và mở đầu bằng câu hát đưa em quen thuộc: “Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc/ Gió nào độc bằng gió Gò Công/ Một trận Đông phong xiêu vợ lạc chồng/ Đêm nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi”.
Tuy nhiên, tác giả Huỳnh Minh kể rằng ngày xảy ra cơn bão lụt là 16 tháng 3 chứ không phải ngày rằm như cụ Việt Cúc kể. Ngày 16 ấy, mưa dầm từ trưa đến 4 giờ chiều, gió rung cây lá đổ, lần lượt nhà lá sập rệu rã trong mưa giông.
Cũng cần nói thêm, thời điểm này chính là lúc các đình làng khai hội Kỳ Yên.
Bởi vậy cụ Huỳnh Minh kể, trong làng làm lễ cúng Thần, Xây chầu đại bội, đào kép còn mang râu đội mão bị nước dâng ngập lụt tới góc đình, có người mắc kẹt trên cây, mặt nguyên phần trang điểm, kêu la cầu cứu.
Chi tiết này cho thấy đây là cơn bão lụt bất thình lình, không ngờ nên người dân hoàn toàn thụ động trong việc ứng phó.
Một câu chuyện rất hay được cụ Huỳnh Minh kể lại là tại Gò Công thuở đó có ông Lộ Công Tập ở làng Long Thuận, ở trong ngôi nhà ngói năm căn nền lót gạch tàu mới cất. Ngôi nhà chắc chắn ấy đã qua cơn bão lũ. Vậy là gần 400 người bị tai ương làm sập nhà cửa không nơi trú ngụ đã về đây xin ở tạm.
Ông Lộ Công Tập gom hết quần áo trong nhà đem cho dân mà cũng không đủ, cơm nấu bằng chảo lá sen hết chảo này tới chảo khác.
“Nghĩa cử hào hiệp đầy lòng nhân ái của gia đình ông đáng cho đời ghi nhớ”, tác giả Huỳnh Minh ghi lại trong “Gò Công xưa”.
Trở lại việc cơn bão xảy ra vào ngày 16 hay 15/3/1904, chúng tôi cho rằng cụ Huỳnh Minh có lý hơn khi cụ viện dẫn được chi tiết thông qua câu ca dao: “Tháng ba mười sáu lai niên/ Cũng trùng một bữa, đậu tiền cúng chung”.
Có nghĩa, sau cơn bão, cứ ngày 16/3 âm lịch, dân chúng hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công có thân nhân bị thiên tai cướp đi sinh mạng cùng hợp nhau cúng bái, gọi là giỗ hội.
Chúng tôi còn tìm được tư liệu về trận bão lụt này trong cuốn “Chuyện xưa tích cũ” do nhà văn Sơn Nam và nhà báo Tô Nguyệt Đình thực hiện. Trong chuyện “Bão lụt năm Thìn” ghi rõ đó là ngày 16/3 âm lịch, nhằm ngày 1/5 dương lịch 1904.
Hai tác giả còn dẫn lại cảnh mất mát, đau thương qua mấy câu ca truyền lại: “Vừa đi vừa ngó các đồng/ Trâu heo bò ngựa tràn đồng sình trương/ Tử thi xem thấy thảm thương/ Thây trôi như củi đào mương tấp vào”.
Cũng cần nói thêm, cơn bão lụt năm Thìn khiến các vùng phụ cận cách Gò Công 50-60 cây số như Bến Tre, Mỏ Cày, Tân An… cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Bao gia tài sự sản bỗng chốc thành bèo mây bọt biển.
Từ sự kiện này, câu thành ngữ “Thành trị hoại không”, có rồi mất, không gì là trường tồn, vĩnh cửu, ra đời. Tác giả Đào Văn Hội trong cuốn “Tân An ngày xưa” kể: “Gió thổi mạnh nhất vào 7 giờ đêm.
Lần đầu tiên mưa đá rơi tại Tân An, cục to bằng cái trứng gà”. Nước sông Vàm Cỏ Tây, sông Bảo Định, kinh Lính Tập dâng lên, nhiều người chạy không kịp, bị nước cuốn trôi. Dân chúng chạy đến trú ở dinh chủ tỉnh và tòa bố. 7 giờ sáng ngày 17/3 âm lịch, mưa tạnh dần, nước rút lần lần. Quang cảnh lúc ấy trông thật điêu tàn, tất cả các nhà lá đều sập, các cây keo, cây me trốc gốc...
“Bến Thành nóc chợ cũng bay”
Sài Gòn đầu thế kỷ XX vốn là đô thị sầm uất nhất Nam Bộ và cả nước nên trận bão năm Giáp Thìn (1904) đổ bộ vào Sài Gòn khiến 3.000 người chết, thiệt hại tài sản vô cùng lớn đến độ đã đi vào những câu thơ ca dân gian truyền miệng của người dân: “Bến Thành nóc chợ cũng bay/ Đèn khí nó ngã nằm ngay cùng đường…”.
Hay: “Gặp em đây mới biết em còn/ Hồi năm Thìn bão lụt anh khóc mòn con ngươi”...
40 năm sau trận thiên tai, Nam Kỳ tuần báo (do Hồ Văn Trung- tức nhà văn Hồ Biểu Chánh làm chủ nhiệm) số 85, ra ngày 8/6/1944, có bài Trận bão năm Thìn của Mỹ Xuân mô tả khá chi tiết về cơn bão diễn ra vào ngày chủ nhật 1/5/1904 trên đất Sài Gòn xưa.
Theo bài báo, hôm ấy cũng đúng vào ngày bầu cử hội đồng thành phố. Chiều hôm trước là ngày khánh thành tuyến xe lửa Sài Gòn- Gò Vấp.
Trong bài diễn văn của mình, một quan chức Sài Gòn dõng dạc tuyên bố: “Nam Kỳ vốn là Phật địa, không bao giờ có bão lụt tàn phá như các xứ thuộc địa khác. Ấy là sự bảo đảm thịnh vượng chung cho xứ sở, cho mọi người, mà cũng là một hạnh phúc riêng cho các công ty xe lửa...”.
Sáng 1/5/1904, suốt từ sáng đến trưa trời Sài Gòn mưa lâm râm. Đến đầu giờ chiều gió bắt đầu thổi mạnh và đến 15 giờ gió càng dữ dội hơn. Người dân Sài Gòn cứ ngỡ là trời dông lớn chứ không ai nghĩ đến bão lụt.
Xe ngựa, xe kéo, khách bộ hành kiếm chỗ trú ẩn hoặc chạy về nhà, đường sá vắng tanh. Mới 16 giờ chiều, trời đã tối sầm, điện bị cúp. Ở các nhà hàng, quán cơm, người ta phải đốt đèn cầy hoặc đèn dầu nhưng gió mạnh khiến đèn liên tục bị tắt.
Cuộc bầu cử hôm ấy vắng mặt tới trên 400 cử tri do thời tiết xấu, kết quả kiểm phiếu bị hủy bỏ và phải dời lại chủ nhật tuần sau.
Bài báo mô tả: “Đến 17 giờ chiều, trận dông mưa mới thật kịch liệt cực điểm. Dông gió tung rớt mái nhà, đốn ngã cây cối, đứt mất dây điện và dây thép, nhận chìm tàu ghe, cột đèn hay cột dây thép xiêu ngã liệt địa. Đường sá vắng teo không người lai vãng, tiếng dông mưa thổi ào ào như trời than đất thở”.
Mưa to gió lớn đến nỗi nhiều con ngựa đang kéo xe hoảng sợ bứt dây cương, quăng xe chạy tháo thân. Có xe bị lật nhào “kéo theo cả con ngựa nằm té sải cẳng”. Hầu hết các xe đều gãy gọng, bay mui, phu xe bỏ chạy tán loạn.
Dọc theo sông Sài Gòn, tàu, sà lan, ghe tam bản, ghe chài, ghe lồng đứt dây, trôi ra giữa sông bị sóng gió đánh ập, va đập nhau mà chìm.
Đến 19 giờ, các tàu lớn Canebière, Adour và Hop Sang bị sóng đẩy lên bờ nằm ngả nghiêng. Chiếc Patroclus đang đậu ở Thủ Thiêm đứt dây neo, chạy ra giữa sông đụng chìm 4 chiếc ghe chở đá, đâm thủng một chiếc ghe chài chở lúa, nhận chìm khoảng một chục chiếc tam bản trước khi chìm xuống bến Nhà Rồng.
Chỉ riêng các ghe chở lúa, chở dầu, chở hàng hóa có đến 43 chiếc bị chìm trong đêm đó. Từ 22 giờ, trời đã bớt dông nhưng mưa vẫn ào ào như trút suốt cả đêm. Đến sáng hôm sau, người ta thống kê có hơn 900 cây lớn tróc gốc nằm ngổn ngang trên các con đường Sài Gòn, lá cây rụng lấp cả đường đi. Nhà lá bay tứ tung khắp nơi, phủ dầy mặt đường, có chỗ lên đến 2m. Trong chợ, các thớt thịt ngã đổ chất đống lên nhau.
Sau đó, báo L’Opinion và Le Courrier de Saigon tường trình về trận bão này: “Dọc theo đường xe lửa chạy dựa theo mé sông từ Sài Gòn vô Chợ Lớn (tuyến xe lửa Sài Gòn- Mỹ Tho), có một cái vòi rồng trên trời thò xuống làm đổ ngã một toa xe, giật đứt mái nhà ở đề pô xe lửa và đè nhẹp cả một cái nhà lá khác.
Cách đó mươi thước, cái vòi rồng ấy hốt một người nam đem tuốt lên không trung rồi khiêng đại xuống mặt đất. Khi thiên hạ chạy đến toan cứu kẻ vô phước thì người ta thấy thân hình anh ta đã dẹp đép...”.
***
Theo các nhà khoa học, trận bão lụt năm Giáp Thìn (1904) là trận sóng thần, địa bàn ảnh hưởng của nó hầu như khắp miền Nam Việt Nam và sang tận Campuchia.
Tròn 120 năm trôi qua, “Năm Thìn bão lụt” vẫn là thiên tai kinh hoàng với người dân Nam Bộ.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.