Thông tin từ Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, thông qua công tác kiểm sát các bản án dân sự sơ thẩm về Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam với hộ gia đình vay vốn, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình phát hiện Tòa án nhân một huyện có vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ án.
Theo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, bản án này đã vi phạm về nội dung, vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự và vi phạm cả trong việc áp dụng căn cứ pháp luật.
Cụ thể, về vi phạm nội dung, bản án số 20/2023/DS-ST ngày 25/9/2023, giải quyết yêu cầu Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và hộ gia đình vay vốn bà Trịnh Thị L.
Thời điểm ký hợp đồng vay vốn, trong hộ gia đình bà L có thành viên trên 18 tuổi là ông Nguyễn Đức A đồng thời có thành viên chưa đủ 18 tuổi là anh Nguyễn Bảo Ng và chị Nguyễn Bảo A.
Hồ sơ vay vốn có văn bản ủy quyền của người trên 18 tuổi là ông A cho bà L, trong thời gian thực hiện hợp đồng, anh Ng đủ 18 tuổi, hồ sơ vay vốn không bổ sung văn bản ủy quyền vay vốn của anh Ng.
Các đương sự vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn là ông A, bà L cùng những người có liên quan trong hộ gia đình bà Linh phải cùng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Bản án số 20/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc tất cả các thành viên đủ 18 tuổi của hộ gia đình (bà L, ông A và anh Ng) có nghĩa vụ trả nợ.
Theo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, việc bản án số 20/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc anh Ng là thành viên đủ 18 tuổi nhưng không có văn bản ủy quyền trong hợp đồng vay vốn cùng thực hiện nghĩa vụ trả nợ là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm Điều 101 Bộ luật dân sự 2015.
Trong vụ án này, theo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, chỉ có bà L và ông A cùng thực hiện nghĩa vụ trả nợ mới đúng quy định của pháp luật.
Vi phạm trong việc thu thập chứng cứ
Thứ hai, về vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, bản án số 20/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 thể hiện quan điểm của bị đơn bà Trịnh Thị L qua lời khai ngày 17/8/2023.
Hồ sơ vụ án thể hiện việc lấy lời khai ngày 17/8/2023 của bà L được Tòa án thực hiện thông qua mạng xã hội zalo có người chứng kiến. Việc lấy lời khai như trên của Tòa án là đảm bảo đúng quy định tại Điều 93, khoản 2,5 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, sau khi hoàn thành việc ghi lời khai trên Tòa án không gửi biên bản ghi lời khai cho bà L để bà L xem lại, thống nhất nội dung khai và ký vào biên bản là vi phạm trong việc thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 97, 98 Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ ba, về vi phạm trong việc áp dụng căn cứ pháp luật, bản án số 22/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 giải quyết yêu cầu Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và hộ gia đình vay vốn ông Phạm Đ Q. Thời điểm ký hợp đồng vay vốn, trong hộ gia đình có thành viên trên 18 tuổi là chị Phạm Thị Th và có thành viên chưa đủ 18 tuổi là chị Phạm Thị Th1.
Hồ sơ vay vốn không có văn bản ủy quyền của người trên 18 tuổi là chị Th cho ông Q. Trong thời gian thực hiện hợp đồng,chị Th1 đủ 18 tuổi, hồ sơ vay vốn không bổ sung văn bản ủy quyền vay vốn của chị Th1. Các đương sự vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Q, chị Th, chị Th1 phải cùng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Bản án số 22/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 nhận định thủ tục hồ sơ vay vốn không đầy đủ, không có văn bản ủy quyền các thành viên trong hộ gia đình ủy quyền vay nên xác định trách nhiệm trả nợ thuộc về cá nhân người xác lập hợp đồng (ông Q) và tuyên buộc ông Q phải có trách nhiệm trả toàn bộ số nợ là đúng quy định tại Điều 101 Bộ luật dân sự 2015.
Tuy nhiên trước đó tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng xác định một mình ông Q có nghĩa vụ trả nợ, chị Thg, chị Th1 không liên quan đến khoản vay nên không có trách nhiệm trả nợ nên chỉ yêu cầu ông Q phải có nghĩa vụ trả nợ, không yêu cầu chị Th, chị Th1 cùng thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ông Q.
Như vậy, Ngân hàng chỉ thay đổi chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong yêu cầu khởi kiện của mình, còn nội dung nghĩa vụ trả nợ không thay đổi.
Tuy nhiên, bản án lại nhận định đây là việc Ngân hàng là rút một phần yêu cầu khởi kiện và áp dụng khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng về việc buộc chị Th, chị Th1 phải có trách nhiệm liên đới cùng ông Q trả nợ Ngân hàng là không đúng.
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình nhận định, việc bản án tuyên như trên là có sự chồng chéo và mâu thuẫn trong việc áp dụng pháp luật vì hậu quả của việc đình chỉ giải quyết yêu cầu do rút đơn khởi kiện là đương sự có quyền khởi kiện lại vụ án trong khi thực tế chỉ có một khoản nợ đã được giải quyết xong khi tuyên buộc một cá nhân có nghĩa vụ trả nợ.
Đáng chú ý, theo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, hai vụ án nêu trên đều do Tòa án nhân dân huyện xét xử trong cùng một ngày, nhưng có sự áp dụng pháp luật không thống nhất; có thiếu sót, vi phạm.
Xét thấy những người bị khởi kiện trong hai vụ án trên đều là thành viên trong hộ gia đình, sau xét xử sơ thẩm các đương sự không có kháng cáo; do vậy những vi phạm nêu trên không ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, không cần thiết phải kháng nghị phúc thẩm.
Vì vậy Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã ban hành kiến nghị đối với Chánh án Tòa án nhân dân huyện yêu cầu khắc phục vi phạm và rút kinh nghiệm.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.