Việt Nam đảm bảo thúc đẩy quyền của đồng bào dân tộc thiểu số

Quân Quân Thứ ba, ngày 26/09/2023 14:09 PM (GMT+7)
Việt Nam với vai trò là một thành viên trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, đã cam kết thực hiện một cách nghiêm túc Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD). Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chính sách và biện pháp nhằm bảo đảm và thúc đẩy quyền của đồng bào dân tộc thiểu số.
Bình luận 0

Công ước CERD ra đời từ năm 1965, là một công ước quan trọng đòi hỏi các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp cần thiết và không trì hoãn các chính sách nhằm loại trừ mọi hình thức phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, dòng dõi, dân tộc hoặc gốc người thiểu số.

Tích cực triển khai Công ước CERD

Việt Nam gia nhập Công ước CERD từ năm 1982 và đã thành công trong việc bảo vệ Báo cáo quốc gia thực thi Công ước CERD bốn lần vào các năm 1983, 1993, 2000 và 2012. Những lần này không chỉ là cơ hội để Việt Nam báo cáo về các thành tựu trong việc bảo vệ quyền con người tổng thể và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người dân tộc thiểu số và người nước ngoài ở Việt Nam, mà còn là dịp để nước ta thể hiện mạnh mẽ sự hiểu biết và tinh thần hợp tác với cộng đồng quốc tế. Điều này đồng thời cũng góp phần phản bác các luận điệu vu cáo và xuyên tạc từ các thế lực thù địch đối với Việt Nam.

Năm 2023, Việt Nam tiếp tục xây dựng Báo cáo quốc gia CERD 5 gửi đến Ủy ban Công ước và được xếp lịch bảo vệ tại kỳ họp thứ 111 của Ủy ban (dự kiến tháng 11 và 12/2023). Thông tin về Báo cáo quốc gia CERD 5, bà Trần Chi Mai - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Ủy ban Dân tộc cho biết báo cáo được xây dựng toàn diện trên cơ sở ý kiến đóng góp của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương, các cơ quan Đảng, Quốc hội, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và người dân.

Việt Nam đảm bảo thúc đẩy quyền của đồng bào dân tộc thiểu số - Ảnh 1.

Nhiều địa phương đầu tư ngân sách, huy động nguồn lực thực hiện phát triển kinh tế nhờ đó đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS ngày càng được nâng cao.

Cụ thể trong báo cáo CERD 5 tập trung thể hiện kết quả Việt Nam thực thi Công ước CERD từ năm 2013-2019, ở các nội dung: Hệ thống pháp luật Việt Nam và các thiết chế bảo đảm, thúc đẩy quyền của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam; Định nghĩa phân biệt chủng tộc và đánh giá sự phù hợp của định nghĩa phân biệt chủng tộc trong các điều luật của Việt Nam; Vai trò quan trọng của công tác dân tộc và thực hiện các chính sách dân tộc trong việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Kết quả thực hiện các cam kết cấm và xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam; Các biện pháp bảo đảm cho người dân tộc thiểu số ở Việt Nam không phải chịu bất cứ hành động phân biệt chủng tộc.

Với những nội dung nêu trên, có thể khẳng định Báo cáo quốc gia CERD 5 sẽ cung cấp cho cộng đồng quốc tế một bức tranh khá toàn cảnh về vấn đề chống phân biệt chủng tộc ở Việt Nam, từ những biện pháp lập pháp, hành chính, tư pháp cũng như các biện pháp khác mà Việt Nam đã xây dựng, triển khai cho đến kết quả tổ chức thực hiện các biện pháp đó trong giai đoạn từ năm 2013 đến 2019 nhằm bảo vệ quyền con người, chống các hành vi kỳ thị, phân biệt về chủng tộc tập trung vào người dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Báo cáo CERD 5 được trình bày và bảo vệ tại Ủy ban Công ước sẽ là cơ hội để Việt Nam tuyên truyền về những thành tựu bảo vệ nhân quyền nói chung và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người dân tộc thiểu số nói riêng. Với một quốc gia có tới 53/54 là dân tộc thiểu số thì việc bảo đảm quyền cho đồng bào dân tộc thiểu số có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Đồng thời cũng qua báo cáo CERD 5, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam thuận hòa, đoàn kết, gắn bó, đề cao ý thức tuân thủ pháp luật sẽ được lan tỏa đến cộng đồng quốc tế, nhằm tăng cường sự hiểu biết và thúc đẩy các quan hệ hợp tác. Từ hiện thực sinh động, thuyết phục này sẽ góp phần bác bỏ những luận điệu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch, thiếu thiện chí đối với Việt Nam, nhất là trong vấn đề thực hiện các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Những kết quả đạt được

Đảng và Nhà nước ta đã cam kết mạnh mẽ đảm bảo và thúc đẩy quyền của các dân tộc thiểu số, đồng thời tạo ra cơ sở hữu ích và bền vững cho sự phát triển của tất cả các cộng đồng dân tộc trong nước. Hiến pháp của Việt Nam, đặc biệt trong Chương II, đề cập đến 36 điều quy định cụ thể về "quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân," bao gồm quyền của dân tộc thiểu số và đảm bảo quyền của họ.

Đảng và Nhà nước ta đã áp dụng phương thức xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến việc đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ năm 2013 đến 2019, đã có 53 văn bản Luật chứa các điều khoản đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số, trong đó có 12 Luật mới được ban hành kể từ năm 2012.

Điều này cho thấy mục tiêu bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số đã được tích hợp vào nhiều khía cạnh của cuộc sống xã hội. Việc đảm bảo quyền bình đẳng về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và dân sự cho tất cả các dân tộc là một phần quan trọng trong việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc trong gia đình lớn của Việt Nam.

Chính sách của Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh sự bình đẳng, đoàn kết và tôn trọng giữa các dân tộc. Điều này bao gồm cả dân tộc thiểu số, bất kể họ thuộc đa số hoặc thiểu số, có mức độ phát triển cao hay thấp. Quyền và nghĩa vụ của họ đều được bảo đảm thông qua Hiến pháp và pháp luật. Điều này cụ thể hóa việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc trong cơ cấu của Việt Nam.

Việt Nam đảm bảo thúc đẩy quyền của đồng bào dân tộc thiểu số - Ảnh 2.

Giờ đây trẻ em vùng đồng bào DTTS đã được tiếp cận và hưởng những điều kiện về giáo dục tốt nhất.

Các biện pháp thực hiện chính sách này đã đạt được một số kết quả tích cực. Sự tin tưởng của người dân thuộc dân tộc thiểu số đối với lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã được củng cố và tăng cường. Đơn vị và cộng đồng dân tộc đang trở nên đồng lòng hơn, đồng thuận xã hội được nâng cao, và khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng mạnh mẽ.

Việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cũng đang được duy trì và phát triển mạnh mẽ.

Kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có những bước phát triển tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở đây cao hơn so với quốc gia trung bình. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi, và thu nhập cũng đã tăng lên. Hạ tầng ở các vùng này cũng được đầu tư mạnh mẽ, giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ công cộng. Công tác giáo dục, đào tạo, và chăm sóc sức khỏe cho dân tộc thiểu số cũng nhận được sự quan tâm và đầu tư.

Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số cũng là một phần quan trọng của chính sách này. Phong tục tập quán lạc hậu đang dần được thay thế, và một số sản phẩm văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát triển. Hàng năm, các ngày hội văn hóa của các dân tộc tổ chức để thể hiện sự đa dạng và sự thống nhất của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã và đang được xây dựng mạnh mẽ. Cán bộ và người công chức dân tộc thiểu số được đào tạo và sử dụng hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn. Công tác quản lý và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số, cũng như xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, và các đoàn thể xã hội được chú trọng và cải thiện.

Tuy nhiên, còn tồn tại một số hạn chế và thách thức. Đời sống của người dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh phát triển tổng thể của đất nước. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số vẫn cao. Khoảng cách giàu nghèo vẫn đang tăng lên. Ngoài ra, một số vấn đề khác như hủ tục, tập quán lạc hậu và mê tín vẫn còn tồn tại. Việc đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cũng đang đối mặt với thách thức.

Về vấn đề này, không thể không nhắc đến những quyết định mang tính lịch sử, đó là việc Bộ Chính trị ban hành Kết luận 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới ; Quốc hội thông qua Đề án tổng thể và phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030…. Đây là bước đi cụ thể của Đảng, Nhà nước trong việc thúc đẩy thực hiện quyền của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Các chính sách phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số. Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới quốc gia, gắn với xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đối với các quốc gia trong khu vực.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem