Bán "hàng hóa CO2" từ rừng, tỉnh Quảng Nam thu 5 triệu USD/năm

K.Nguyên Thứ ba, ngày 20/12/2022 15:49 PM (GMT+7)
Phát triển thị trường tín chỉ các bon, biến CO2 thành hàng hóa là một trong những giải pháp để huy động nguồn lực cho công tác bảo vệ, phát triển rừng. Hiện, Quảng Nam là địa phương đầu tiên được thí hiểm kinh doanh tín chỉ các bon rừng.
Bình luận 0

Khi CO2 cũng là hàng hóa

Được biết, Quảng Nam là địa phương đầu tiên được Chính phủ đồng ý cho phép lập Đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ các bon rừng từ giảm phát thải khí nhà kính thông qua chống mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng trong vòng 5 năm (2021-2025).

Theo đó, khi thực hiện đề án, chủ rừng (gồm các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên, đơn vị, tổ chức cá nhân trồng rừng…) sẽ được hưởng lợi khi tham gia thị trường các bon rừng. Bởi các chủ rừng này có thể quy đổi diện tích rừng đang quản lý ra lượng hấp thụ khí CO2 (Cacbon dioxit, khí gây hiệu ứng nhà kính). Giá giao dịch thông thường của thị trường quốc tế theo thời điểm hiện tại là 5 USD/tấn CO2. 

Theo tính toán, với 680.000 ha rừng, độ che phủ đạt 58,6%, trong đó có 466.113 ha rừng tự nhiên, với khả năng hấp thụ khoảng hơn 11,2 triệu tấn khí các bon trong giai đoạn từ 2018-2030, mỗi năm Quảng Nam có thể thu về khoảng 5 triệu USD từ việc bán tín chỉ các bon rừng. Hiện nay, có 5 công ty nước ngoài đăng ký mua lại giấy phép/tín chỉ các bon rừng.

Trước đó, Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) đã được ký kết ngày 22/10/2020 giữa Bộ Nông nghiệp và PTNT và Ngân hàng thế giới (WB). Với thỏa thuận này, Việt Nam sẽ chuyển nhượng lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn CO2e ở vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024 cho WB với tổng số tiền 51,5 triệu USD.

Cùng với tỉnh Quảng Nam, nhiều địa phương khác cũng đang đi theo hướng bán tín chỉ các bon và đã xác định hoàn toàn có "hàng hóa CO2" từ rừng đem bán.

Bán "hàng hóa CO2 từ rừng", tỉnh Quảng Nam thu 5 triệu USD/năm  - Ảnh 1.

Ông Trần Quang Bảo, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT) đồng chủ trì Hội thảo: "Thị trường các bon rừng: Kết quả sau COP27 và lộ trình xây dựng thị trường các bon rừng tại Việt Nam". Ảnh: P.V

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 156/2018/NĐ-CP, trong đó có nội dung về chi trả dịch vụ "Hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng; giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh".

Phát triển thị trường tín chỉ các bon

Tại Hội thảo: "Thị trường các bon rừng: Kết quả sau COP27 và lộ trình xây dựng thị trường các bon rừng tại Việt Nam" do Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT) phối hợp với các tổ chức quốc tế tổ chức sáng 20/12, ông Trần Quang Bảo, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp cho biết, các nhà lãnh đạo của hơn 193 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam vừa trở về từ Hội nghị lần thứ 27 các bên tham gia Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu (COP27) tại Ai Cập với những cam kết chính trị và hợp tác quốc tế để giải quyết 1 trong 5 thách thức lớn nhất của toàn cầu, đó là nạn mất rừng và suy thoái rừng. 

Cùng với nhiều quốc gia khác trên thế giới trong đó có Na Uy, Việt Nam đã tham gia "Tuyên bố của các nhà Lãnh đạo Glasgow về sừng và sử dụng đất" tại COP26 và "Đối tác của các nhà lãnh đạo về rừng và khí hậu" tại COP27.

Bán "hàng hóa CO2 từ rừng", tỉnh Quảng Nam thu 5 triệu USD/năm  - Ảnh 2.

Quảng Nam là địa phương đầu tiên được Chính phủ đồng ý cho phép lập Đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ các bon rừng từ giảm phát thải khí nhà kính thông qua chống mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng trong vòng 5 năm (2021-2025). Ảnh: Báo Quảng Nam.

Thực tế, lâm nghiệp là ngành không những có vai trò đặc biệt quan trọng đóng góp để thực hiện các cam kết mà còn là nguồn tài chính rất có tiềm năng thông qua thương mại các bon rừng.

Là một quốc gia có tỉ lệ che phủ rừng lớn trên thế giới, ngành lâm nghiệp Việt Nam không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp thích ứng và giảm thiểu với biến đổi khí hậu mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước, đặc biệt là khi hơn 25 triệu dân Việt Nam đang sống phụ thuộc vào rừng. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới, công tác bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi nguồn tài chính thiếu ổn định và chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu thực tế của ngành. 

"Hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm và đa dạng hóa nguồn tài chính bền vững cho ngành lâm nghiệp luôn được coi là ưu tiên hàng đầu trong các chính sách biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, trong đó có việc thúc đẩy hợp tác trong việc xây dựng các giải pháp huy động nguồn tài chính mới thông qua phát triển thị trường carbon rừng", ông Bảo nhấn mạnh.

Thị trường các bon đã được cộng đồng quốc tế thúc đẩy như là một trong những cơ chế tài chính hiệu quả để giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng, bảo vệ rừng và nâng cao trữ lượng các bon từ các bể chứa các bon khác như đất than bùn và đất ngập nước.

Trong giai đoạn 2017 - 2019, thế giới đã ghi nhận những dấu hiệu tích cực cho sự phát triển của thị trường các bon rừng với gần 400 triệu USD được tạo ra từ các giao dịch thị trường các bon tự nguyện toàn cầu; ít nhất 5,9 tỷ USD đã được chi trả cho các dự án bồi hoàn các bon rừng trên toàn thế giới và ít nhất 1,3 tỷ USD đã được các bên tăng cường giải ngân hoặc ký hợp đồng để hỗ trợ các nước đang phát triển bảo vệ rừng.

Tuy nhiên, các giao dịch này chưa tương xứng với tiềm năng của ngành lâm nghiệp và chịu nhiều ảnh hưởng của các luật định quốc tế về vận hành thị trường các bon.

Theo ông Trần Quang Bảo, ngành lâm nghiệp Việt Nam hiện đang chuẩn bị và triển khai một số dự án trao đổi tín chỉ các bon rừng nhằm huy động nguồn tài chính bổ sung cho ngành lâm nghiệp để đầu tư trực tiếp cho quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời góp phần góp phần xây dựng thị trường các bon trong nước và tham gia thị trường các bon thế giới. 

Tuy nhiên, việc triển khai các dự án trao đổi tín chỉ các bon rừng còn gặp nhiều khó khăn từ các vấn đề kỹ thuật, đàm phán quốc tế đến chủ trương, chính sách trong nước do thị trường các bon trong nước chưa được thiết lập.

"Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và trong nước về thị trường các bon rừng để đề xuất xây dựng và phát triển thị trường các bon rừng gắn với chi trả dịch vụ lưu giữ và hấp thụ các bon rừng; nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, điều kiện kỹ thuật để hỗ trợ xây dựng, vận hành thị trường các bon rừng; đồng thời tham mưu triển khai các dự án thí điểm trao đổi tín chỉ các bon rừng", ông Bảo nói. 

Tín chỉ các-bon là giấy phép cho phép mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh phát thải khí CO2. Mỗi tín chỉ các-bon được xác nhận là 1 tấn CO2 hoặc 1 tấn khí nhà kính khác quy đổi ra 1 tấn CO2 gọi chung là 1 tấn CO2 (viết tắt là CO2e). Tín chỉ các-bon rừng được xác định từ lượng CO2 hoặc CO2e được tạo ra từ hoạt động giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+). Chủ rừng có thể quy đổi diện tích rừng đang quản lý, bảo vệ ra lượng hấp thụ khí CO2, ra tín chỉ các-bon và có thể bán tín chỉ này tại thị trường các-bon qua cơ chế giảm phát thải khí nhà kính thông qua REDD+.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem