Đột phá KHCN từ Nghị quyết 57: Áp dụng cơ chế "đặt hàng", tránh tình trạng "trên rải thảm, dưới rải đinh" (Bài cuối)
Đột phá KHCN từ Nghị quyết 57: Áp dụng cơ chế "đặt hàng", tránh tình trạng "trên rải thảm, dưới rải đinh" (Bài cuối)
Nhóm PV
Thứ ba, ngày 18/03/2025 08:30 AM (GMT+7)
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho rằng, giao kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ (KHCN) cho các viện, cơ sở nghiên cứu theo biên chế hàng năm "lạc hậu lắm rồi", trong khi có những Bộ đã thay đổi cơ chế này từ 15 năm trước, vì vậy, phải giao theo cơ chế "đặt hàng" hoặc đấu thầu.
Từ ngày 10/3 đến ngày 17/3, Báo điện tử Dân Việt đã đăng loạt 8 bài với chủ đề: "57 trong nông nghiệp". Theo đó, loạt bài đã đi sâu phân tích, đánh giá, chia sẻ, kỳ vọng của các nhà quản lý, nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp về sự đột phá của Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Không những vậy, rất nhiều điểm nghẽn của cơ chế, những khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KHCN được các nhà khoa học chia sẻ thẳng thắn, đồng thời họ cũng đưa ra nhiều giải pháp, hiến kế, nhằm triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị.
Để kết thúc loạt bài này, PV Dân Việt đã ghi nhận ý kiến của các nhà lãnh đạo, quản lý , nhà khoa học về những giải pháp đột phá vào KHCN cho thời gian tới đây. Sau loạt bài này, Báo điện tử Dân Việt tiếp tục mở diễn đàn và trân trọng tiếp nhận các ý kiến góp ý, hiến kế của các nhà khoa học, doanh nghiệp về những giải pháp đột phá cho KHCN trong thời gian tới đây, vì một nền nông nghiệp Việt Nam thịnh vượng, phát triển bền vững.
Giảng viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam cùng sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan:
Miễn trách nhiệm dân sự trong nghiên cứu khoa học – Đột phá trong tư duy về rủi ro đổi mới sáng tạo
Nghị quyết 193/2025/QH15 nhằm cụ thể hóa và thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nông nghiệp, là một bước đi quan trọng trong việc xây dựng nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tại Việt Nam. Với những cơ chế thí điểm đặc biệt, nghị quyết này không chỉ hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp trong việc nghiên cứu và triển khai công nghệ mà còn thúc đẩy quá trình số hóa trên phạm vi toàn quốc.
Tuy nhiên, giống như bất kỳ chính sách nào, nghị quyết này cũng đi kèm với những thách thức và cần có cách tiếp cận hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất. Dân Việt xin giới thiệu bài viết của Đồng chí Lê Minh Hoan- Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội khi phân tích, bình luận về những điểm tích cực và giải pháp khi thực hiện Nghị quyết này.
1. Điểm tích cực và cơ hội từ Nghị quyết 193/2025/QH15
1.1. Miễn trách nhiệm dân sự trong nghiên cứu khoa học – Đột phá trong tư duy về rủi ro đổi mới sáng tạo
Một trong những điểm quan trọng nhất của nghị quyết là miễn trách nhiệm dân sự cho các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học khi gây thiệt hại cho Nhà nước, với điều kiện họ đã tuân thủ quy trình và quy định pháp luật.
Đây là một bước đột phá quan trọng trong tư duy về đổi mới sáng tạo, vì:
• Nghiên cứu khoa học luôn đi kèm rủi ro: Trong khoa học, thất bại không phải là dấu chấm hết mà là một phần của quá trình tìm ra cái mới. Nếu một chính sách quá khắt khe về trách nhiệm pháp lý, nhà nghiên cứu có thể e dè khi thực hiện các dự án mang tính đột phá.
• Kinh nghiệm quốc tế: Các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Đức, Hàn Quốc đều có những chính sách bảo vệ các tổ chức nghiên cứu khỏi các rủi ro pháp lý nhất định để khuyến khích họ thử nghiệm công nghệ mới.
Ví dụ: Ở Mỹ, NASA từng chi hàng tỷ USD cho dự án Space Shuttle, dù gặp nhiều thất bại nhưng vẫn được tiếp tục vì họ hiểu rằng mỗi thất bại là một bài học dẫn đến thành công.
Tuy nhiên, chính sách này cũng đi kèm với rủi ro lạm dụng, vì vậy cần:
• Có quy trình đánh giá kết quả nghiên cứu rõ ràng.
• Định nghĩa cụ thể về mức độ thiệt hại chấp nhận được.
• Có hội đồng khoa học độc lập để kiểm soát việc sử dụng ngân sách nghiên cứu.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy:
Giao nhiệm vụ KHCN theo biên chế đã quá lạc hậu, cần chuyển sang cơ chế đặt hàng
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy tại buổi làm việc với các đơn vị của Bộ về công tác đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật, quy chuẩn - tiêu chuẩn. Ảnh: Khương Trung
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho hay, một trong những nhiệm vụ trong tâm năm 2025 của Bộ, đó là đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển tài nguyên số. Trong đó, một số nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện ngay trong thời gian ngắn hạn, bao gồm việc hoàn thiện Kế hoạch của Bộ để tích hợp thực hiện các Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia...
Rà soát, bổ sung ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên ngành đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập.
Nghiên cứu, tham mưu cơ chế đặt hàng thực hiện nhiệm vụ KHCN hàng năm, đổi mới công tác quản lý KHCN đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành trong giai đoạn mới.
Theo Bộ trưởng Đỗ Đức Duy, hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang giao kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN cho các Viện theo biên chế là "lạc hậu lắm rồi", trong khi có những Bộ đã thay đổi cơ chế này từ 15 năm trước, vì vậy, ông đề nghị phải giao theo "cơ chế đặt hàng" hoặc đấu thầu. Muốn làm được việc này, phải xây dựng, hoàn thiện định mức kinh tế kỹ thuật cho các dự án, đề tài khoa học công nghệ và các dịch vụ công có sử dụng ngân sách nhà nước.
"Tới đây, tất cả các đơn vị sự nghiệp phải thực hiện cơ chế đặt hàng, chứ không giao theo số biên chế, điều này không đúng bản chất vấn đề và cơ quan đặt hàng sẽ là các cục quản lý chuyên ngành. Các đơn vị sự nghiệp nhận cơ chế đặt hàng, không gọi là bao cấp nữa, có thể nhận đặt hàng từ Bộ hoặc các đơn vị bên ngoài, doanh nghiệp", Bộ trưởng Duy nhấn mạnh.
Một trong những mục tiêu quan trọng trong lĩnh vực này là hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai quốc gia, cơ sở dữ liệu đất đai, đồng thời xây dựng bản đồ số về quy hoạch đất đai và giá đất, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp và bảo vệ môi trường. Cùng với đó, Bộ sẽ hoàn thiện hệ thống Cổng truy xuất nguồn gốc nông sản, hướng tới việc áp dụng toàn quốc, góp phần nâng cao tính minh bạch trong ngành nông sản, tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, Bộ cũng sẽ triển khai các chương trình đặt hàng khoa học công nghệ, nghiên cứu các giải pháp chuyển đổi số, nhằm tối ưu hóa quá trình quản lý và vận hành các cơ quan thuộc Bộ.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị mở rộng không gian của khoa học công nghệ và chuyển đổi số không chỉ trong phạm vi của Bộ, mà còn phải liên kết với các viện, trường và các cơ quan nghiên cứu trong ngành nông nghiệp và môi trường. Bộ trưởng cho rằng khoa học công nghệ không chỉ nghiên cứu trong phạm vi Bộ mà phải hợp tác, nhân rộng ra để nhìn nhận đó là sức mạnh của toàn ngành. Việc nghiên cứu giống tốt, công nghệ mới phải là trách nhiệm chung của nhiều đơn vị, không chỉ riêng Bộ.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến:
Tăng trưởng toàn ngành 4% năm 2025 - KHCN đóng vai trò then chốt
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng, KHCN sẽ đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng của ngành năm 2025. Ảnh: Minh Ngọc
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho hay, với mục tiêu tăng trưởng toàn ngành 4% trong năm 2025 như nhiệm vụ Chính phủ giao, cần rà soát, đánh giá để có những giải pháp về cơ cấu ngành hàng nhằm đảm bảo về đích thành công. Trong đó, khoa học công nghệ là giải pháp đầu tiên.
“Khoa học công nghệ sẽ quyết định vị thế của đất nước, vị thế của dân tộc và vị thế của ngành”, Thứ trưởng Tiến khẳng định. Do đó, giải pháp đầu tiên là thúc đẩy phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ một cách mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn và hiệu quả hơn.
Chiếm hơn 50% giá trị gia tăng toàn ngành, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng thời gian tới, khoa học công nghệ cần đi sâu vào chương trình giống, quy trình canh tác, bảo vệ thực vật, thú y phòng bệnh và các lĩnh vực khác để gắn với kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số, đảm bảo truy xuất được nguồn gốc, minh bạch hóa sản phẩm để bước ra thị trường thế giới.
GS.TS Nguyễn Hồng Sơn- Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam:
Tránh tình trạng "trên rải thảm, dưới rải đinh"
GS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Minh Ngọc
GS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cho biết, thực tế hiện nay ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, lương của các nhà khoa học rất thấp, chỉ đạt 50-60% trên nhu cầu thực tế. Rõ ràng nếu chỉ dựa vào lương thì các nhà khoa học không thể đủ sống buộc họ phải đi làm thêm, trong khi đó cơ chế để cho tự chủ. Tôi ví dụ như khi nghiệm vụ KHCN khoán chi- tức là đáp ứng được thì được chi, lại bị ràng buộc bởi những cơ chế tài chính hoặc những kiểm soát khác, vì vậy không có cơ chế nào để tạo ra một nguồn thu đáng kể cho các nhà khoa học.
Trong các cơ quan nghiên cứu khoa học thì cũng có những đơn vị tạo ra những sản phẩm có thể thương mại hóa được nhưng cũng có những đơn vị không thể tạo ra sản phẩm thương mại hóa được. Đơn cử như Viện Bảo vệ thực vật, Viện Di truyền nông nghiệp, Viện Thổ nhưỡng nông hóa là những đơn vị nghiên cứu cơ bản, phục vụ chung cho cộng đồng xã hội, tạo ra những quy trình phòng trừ sâu bệnh, quy trình để bảo vệ đất đai, tài nguyên… nhưng cũng chỉ phục vụ người dân chứ không thể đem bán được.
Một nền sản xuất nhỏ như của chúng ta nếu không phân biệt rõ mà cứ yêu cầu tự chủ đồng đều, rồi là các nhà khoa học phải tự tạo nguồn thu cho mình bằng việc phải đi làm thêm là chuyện đương nhiên. Còn đối với các Viện nghiên cứu- họ cũng không thể trông chờ vào đặt hàng của Nhà nước mà phải chủ động nghiên cứu, tạo ra sản phẩm để tự chủ một phần, thế nhưng ở giai đoạn này nếu làm quá nhanh thì cũng chưa thể theo kịp với xu hướng tự chủ.
Có những hoạt động KHCN tự chủ được nhưng cũng có những hoạt động không tự chủ được. Bởi vì những hoạt động nghiên cứu cơ bản phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước hoặc tạo ra những sản phẩm trung gian mà các doanh nghiệp không làm được thì chắc chắn Nhà nước vẫn phải hỗ trợ toàn bộ, đó mới là tính chất, sự khác biệt giữa KHCN công lập và KHCN dân lập – tức là của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải có lộ trình phù hợp hơn, tạo điều kiện cho các nhà khoa học cải thiện về thu nhập, từ đó yên tâm làm việc.
GS.TS Nguyễn Hồng Sơn khẳng định, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được ban hành đã tạo ra cơ chế mở để thu hút được các nhà khoa học trẻ, có năng lực, trình độ và cả những nhà khoa học đang làm việc ở nước ngoài thì chúng ta phải có những chính sách đồng bộ, khuyến khích. Trong đó, phải kể đến chế độ tiền lương, quyền sở hữu sản phẩm, tạo điều kiện để các nhà khoa học thương mại hóa các sản phẩm, liên doanh, liên kết trong nghiên cứu để, từ đó tạo nguồn thu...
Để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn và tổ chức thực hiện phải "thấu hiểu" được những vướng mắc, khó khăn đang cản trở KHCN. Lâu nay, Nghị quyết được ban hành rất đúng và trúng nhưng các quy định của Luật và văn bản dưới Luật lại cứ vòng vo, vì vậy cần tránh tình trạng "trên rải thảm, dưới rải đinh".
GS-TS Lê Huy Hàm - Nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp:
Nắm bắt cơ hội, ứng dụng nông nghiệp thông minh
GS.TS. Lê Huy Hàm cho hay, thời gian tới, công nghệ thông minh sẽ thâm nhập như một khuynh hướng tất yếu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó có nông nghiệp và làm cho nông nghiệp thông minh hơn, hiệu quả hơn. Ảnh: Minh Ngọc
Theo GS.TS. Lê Huy Hàm - Nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ nông nghiệp, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội), ở châu Âu cũng như một số nước như Hàn Quốc… công nghệ thông minh đã được ứng dụng từ lâu và có rất nhiều thành thành tựu. Với nước ta, việc ứng dụng công nghệ thông minh có vai trò đặc biệt quan trọng vì nước ta vẫn là nước nông nghiệp, nông nghiệp từ trước đến nay vẫn là căn bản của đất nước.
Tuy nhiên, về đất đai, có thể nói nước ta là một trong những nước có diện tích đất canh tác bình quân đầu người thấp nhất thế giới. Ở châu Á nước ta có thể chỉ hơn Bangladesh... Điều này cho thấy nước ta gặp rất nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên.
Thứ hai nữa là bờ biển nước ta dài nhưng bị ảnh hưởng rất lớn bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn. Đây là yếu tố vô cùng bất lợi với nông nghiệp. Như trận bão Yagi vừa qua đã ảnh hưởng lớn đến cây trồng, chăn nuôi, thủy sản.
Với quỹ đất nông nghiệp nhỏ như thế nên chúng ta phải canh tác 2 vụ, thậm chí 3 vụ. Việc này về trước mắt có thể giải quyết được vấn đề lương thực nhưng về lâu về dài thì như thế nào, có bền vững hay không? Nguồn đất suy kiệt vì thế nên phát triển hiện nay là không bền vững. Quỹ đất đang khai thác chủ yếu ở các đồng bằng, khai thác cũng đến mức giới hạn nên đã đến lúc phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có hiệu quả hơn.
Quỹ đất rất lớn ở Trung du, miền núi chúng ta chưa khai thác hiệu quả. Ở vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung phát triển tốt, do đó việc hỗ trợ cho Trung du, miền núi, đặc biệt vùng sâu, vùng xa là hết sức quan trọng và nông nghiệp thông minh là một trong những yếu tố...
Câu hỏi đặt ra là phát triển nông nghiệp thông minh theo định hướng nào? Theo GS.TS. Lê Huy Hàm, internet, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo đã và đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống, sản xuất và trong nông nghiệp, công nghệ sinh học cũng sẽ thay đổi. Công nghệ thông minh sẽ xâm nhập vào các lĩnh vực như khai thác, quản lý nguồn gene, khai thác trình tự gene; hỗ trợ trong việc chọn tạo giống cây trồng, dự báo thiên tai, dự báo dịch bệnh, xây dựng hệ thống cây trồng thông minh và dự báo sản lượng, dự báo thị trường...
"Công nghệ thông minh sẽ thâm nhập như một khuynh hướng tất yếu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó có nông nghiệp và làm cho nông nghiệp thông minh hơn, hiệu quả hơn. Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 193 của Quốc hội sẽ thúc đẩy mạnh mẽ khuynh hướng này", GS.TS. Lê Huy Hàm khẳng định.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.