“Một bộ phận người trẻ chỉ muốn từ bỏ nguồn gốc nông dân”

Minh Yến – Hải Phong ghi Thứ bảy, ngày 23/01/2016 10:54 AM (GMT+7)
"Nông dân đang mất dần năng lực sáng tạo văn hóa, bị cuốn theo lợi ích vật chất. Lối sống thực dụng “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, "sống chết mặc bay", một bộ phận nông dân trẻ có lối sống đua đòi, hưởng thụ cao hơn lao động và luôn mong muốn từ bỏ nguồn gốc “nông dân” của mình..."
Bình luận 0

Đó là luận điểm trong bài tham luận với chủ đề “Xây dựng giai cấp Nông dân Việt Nam vững mạnh, trong khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh” tại Đại hội Đảng khoá XII của Chủ tịch BCH T.Ư Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Quốc Cường vào sáng 23.1.

Bài phát biểu chỉ rõ 4 vai trò và 5 nguy cơ và 8 nhóm giải pháp để nông dân Việt Nam không bị tụt hậu trong giai đoạn mới.

4 vai trò chính

Nghiên cứu Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW khóa XI trình Đại hội XII lần này chúng ta thấy vấn đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN” là thành tố có vị trí thứ 2 trong tiêu đề của Báo cáo chính trị.

img

 Chủ tịch BCH T.Ư Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Quốc Cường

Điều này khẳng định, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ XHCN là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời là giải pháp để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nhằm “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; sớm đưa đất nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” .

Do vị trí, vai trò quan trọng của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ XHCN, trong Báo cáo đã có 22 lần nhắc tới “đại đoàn kết toàn dân tộc” và viết thành một mục riêng, có nhận định, đánh giá, có phương hướng nhiệm vụ.

Trong nội dung này, Báo cáo nêu rõ “Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin..., cải thiện chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp”.

Vấn đề nêu trên là khẳng định sự nhất quán của Đảng ta “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”. Đây là một trong những nhân tố quan trọng làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, trước đổi mới và trong đổi mới.

Bước vào thời kỳ CNH – HĐH, hội nhập và phát triển – vấn đề phát huy sức mạnh đoàn kết phải vừa kế thừa, vừa có bước phát triển mới về chất lượng, đó là nhằm “Tạo sinh lực mới cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Trong đó, giai cấp nông dân phải làm tròn trách nhiệm của mình với 4 vai trò chủ yếu sau đây:

Một là, Nông dân có vai trò là lực lượng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn..., sản xuất ra lương thực, thực phẩm, một số mặt hàng tiểu thủ công nghiệp...để nuôi sống xã hội, cung cấp một số hàng tiêu dùng, nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp.

Hai là, Nông dân có vai trò là lực lượng sản sinh, gìn giữ, bảo tồn và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, bao gồm cả: Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.

Ba là, Nông dân có vai trò là nguồn nhân lực và là một lực lượng chính trị hùng hậu, có ở tất cả miền núi, biển đảo, trung du, đồng bằng, ven đô và đô thị nhỏ. Nông dân là nguồn chủ yếu cung cấp nhân lực cho bộ đội, công an, công nhân, đội ngũ trí thức, công chức, viên chức của đất nước. Lực lượng chính trị này, luôn trung thành và tự nguyện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời nông dân cũng luôn hăng hái thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng.

Bốn là, Nông dân có vai trò là lực lượng trọng yếu bảo vệ tài nguyên và môi trường của đất nước, bao gồm: đất đai, rừng, biển đảo, nước, khoáng sản...v.v.  

Với 4 vai trò chính đó, chúng ta có thể khẳng định: Nông dân là lực lượng trọng yếu về: Kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh và sự nghiệp CNH  – HĐH - Đô thị hóa đất nước.

5 nguy cơ

Sau 30 năm thực hiện đổi mới và hội nhập thế giới, trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, Nghị quyết, những chính sách lớn phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nông dân. Cấp ủy, chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng để phát triển nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống nông dân.

Về nông dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp nông dân, Hội Nông dân Việt Nam  bằng sự nỗ lực vượt khó và niềm tin với Đảng, Nhà nước, nông dân nước ta đã có những đóng góp to lớn, được Đảng, Nhà nước và xã hội ghi nhận. Vị thế, vai trò của người nông dân, giai cấp nông dân được nâng cao, mở rộng và tham gia ngày một nhiều vào công việc của Đảng, Nhà nước, địa phương và cộng đồng. Nhờ vậy, sự nghiệp đổi mới của Đảng, của dân tộc 30 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt là trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, như: Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; cung cấp đủ và vượt lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước; 10 mặt hàng nông sản chủ lực xuất khẩu xếp thứ hạng cao trên thế giới gồm: Gạo, hạt tiêu, hạt điều, cao su, cà phê, các sản phẩm về gỗ, thủy sản,… Biên giới, đất liền, biển đảo được giữ vững, an ninh chính trị, an toàn xã hội; công cuộc xây dựng Nông thôn mới đạt kết quả ban đầu quan trọng và đã trở thành phong trào rộng lớn cuốn hút các lực lượng xã hội tham gia.

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu xây dựng “mẫu hình người nông dân mới, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì vai trò, vị trí của nông dân, nông thôn đang cảnh báo có những nguy cơ sau đây:

1. Về địa vị, vai trò kinh tế của nông dân, nông thôn đang có biểu hiện giảm sút trong quá trình CNH - HĐH và Đô thị hóa. Không ít bộ, ngành và địa phương còn coi nông dân, nông nghiệp là "sân sau của công nghiệp, doanh nghiệp” nên việc đầu tư xã hội phát triển nông nghiệp giảm sút mạnh từ 32,4% của những năm 1989-1990 xuống còn 14,2% những năm 2005-2010 và chỉ còn 6,12% đến 6,06% những năm 2012 – 2014. Cùng với khó khăn của tiêu thụ nông sản, đã làm cho kinh tế nông nghiệp chững lại, giảm sút và kéo theo là việc nông dân không được quyền “định giá nông sản”..., điều này đồng nghĩa với địa vị, vai trò kinh tế của nông dân giảm sút theo. Và dẫn tới thu nhập của nông dân cũng giảm, tạo ra tâm lý nông dân không muốn làm nông nghiệp.

2. Khoa học kỹ thuật nông nghiệp nhìn chung vẫn khó “thâm nhập vào nông dân”, phần lớn lao động nông nghiệp trẻ tìm cách ly quê, ly nông. Cùng với đất sản xuất nông nghiệp vẫn nhỏ lẻ, manh mún, nông sản giá thành cao, chất lượng thấp,… dẫn đến khả năng hội nhập kinh tế thế giới của nông dân, của nông nghiệp Việt Nam chậm, tụt hậu xa hơn đối với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

3. Quá trình Công nghiệp hóa, đô thị hóa trong 20 năm qua và những năm tới khả năng sẽ tiếp tục lấy đi đất sản xuất nông nghiệp, Đặc biệt là vùng đất 2 lúa, đất ven trục lộ giao thông, đất ven đô thị…; việc “đào tạo nghề cho lao động nông thôn” chất lượng thấp, môi trường nông thôn xuống cấp nghiêm trọng..., dẫn đến nông dân thiếu việc làm, nông thôn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.  

4. Về văn hóa xã hội: nông dân đang mất dần năng lực sáng tạo văn hóa, bị cuốn theo lợi ích vật chất. Lối sống thực dụng “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, "sống chết mặc bay", đua theo lợi ích trước mắt mà buông lỏng vệ sinh an toàn thực phẩm, bất chấp sức khỏe người tiêu dùng. Văn hóa truyền thống “tình làng, nghĩa xóm” bị suy giảm. Một bộ phận nông dân trẻ có lối sống đua đòi, hưởng thụ cao hơn lao động, xa dần văn hóa, nghệ thuật dân gian, lịch sử dân tộc và luôn mong muốn từ bỏ nguồn gốc “nông dân” của mình.

5. Nông dân đang bị phân hóa giàu nghèo và xu thế ngày càng tăng. Trước đổi mới khoảng cách là 3,5 lần; đầu đổi mới 5,6 lần; hiện tại khoảng 10,2 lần.  

8 nhóm giải pháp

Để đạt được mục tiêu “người nông dân là chủ thể của quá trình sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”, thực hiện thành công CNH - HĐH, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam đã nêu trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII này; chúng tôi xin kiến nghị 8 nhóm giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giai cấp nông dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc như sau:

Một là, vừa qua chúng ta đã tập trung nhiều cho phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, tới đây cần tiếp tục cụ thể hóa chương trình, nội dung trung hạn, dài hạn xây dựng giai cấp nông dân gắn liền với phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới theo nội dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 – BCH Trung ương Đảng (khóa X) về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trong đó trọng điểm là đến năm 2020, phải nâng mức thu nhập của nông dân lên gấp 2,5 lần so với năm 2008 và tăng dần vào những năm tiếp theo. Đây là nền tảng, là điều kiện tiên quyết để nâng cao dân sinh, dân trí, dân luật, dân chủ cho nông dân.  

Hai là, đầu tư cho “Tam nông” phải duy trì đúng theo Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa X), bảo đảm giai đoạn 5 năm sau gấp 2,5 lần 5 năm trước. Xin có lời giải cho câu hỏi: làm thế nào và bằng cách nào để nâng cao đầu tư xã hội cho "tam nông"? Cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực nên tập trung vào các vấn đề then chốt mà người nông dân sản xuất nhỏ đang mong đợi, gồm:  

- Công nghiệp và phương tiện lưu giữ, bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch.

- Xây dựng thương hiệu, thông tin thị trường.

- Hạ tầng cơ sở  vật chất cho vùng miền theo quy hoạch sản xuất.

- Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, khoa học kỹ thuật tiên tiến và liên kết sản xuất, tiêu thụ.

Ba là, trong tái cơ cấu nông nghiệp chú trọng rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể ngành, hàng sản xuất theo thế mạnh của vùng miền, địa phương và đặc điểm đất, sinh thái cây trồng vật nuôi gắn với phát triển công nghệ cao, công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ cho phù hợp. Nhà nước thống nhất quản lý, điều hành theo quy hoạch, kế hoạch.

Bốn là, tập trung giải quyết khó khăn, tạo sức bật cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn bằng 3 biện pháp mạnh, có tính đột phá gồm: Khoa học kỹ thuật; An toàn vệ sinh thực phẩm và cung cấp thông tin thị trường, giá cả; gắn liền với mở rộng, phát triển thị trường tiềm năng có giá trị sinh lời cao như: Châu Âu, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật… hạn chế thị trường dễ tính, giá rẻ và bấp bênh.

Năm là, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp bằng tăng cường liên kết, nâng qui mô, phát triển kinh tế hợp tác theo chuỗi giá trị sản phẩm, ngành hàng theo thế mạnh vùng, miền. Hướng trọng tâm nông sản vào xuất khẩu, có sức cạnh tranh cao. Gắn tổ chức sản xuất kinh tế hợp tác với đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt là nghề trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông sản.

Sáu là, mở rộng, nâng cao chất lượng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, có lộ trình thích hợp để nông dân tham gia và được hưởng lương hưu; đồng thời, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng bền vững công cuộc xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn minh, là chiếc nôi thân yêu, nuôi dưỡng tâm hồn đẹp, cao quý của người nông dân Việt Nam.

Bảy là, tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng giáo dục, dạy nghề, đưa thông tin về cơ sở tới từng địa bàn dân cư; nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm dạy nghề, coi trọng hình thức "nông dân dạy nông dân", làm tốt công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nông dân. Qua đó, để nông dân chủ động, tham gia nhiều hơn vào giám sát hoạt động đối với cán bộ, đảng viên, cơ quan công quyền và xây dựng chính sách pháp luật của nhà nước; tự tin bảo vệ quyền và nghĩa vụ, lợi ích của công dân theo Hiến pháp, pháp luật.

Tám là, Tổng kết lý luận gắn thực tiễn, đề ra các tiêu chí cụ thể và chỉ đạo xây dựng mẫu hình " người nông dân mới" trong thời kỳ CNH, HĐH với các tiêu chí "nhận thức mới, kiến thức mới, ý thức mới, văn hóa mới , quyết tâm mới để có đời sống cao hơn và để xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

Thực tiễn nhiều năm qua đã chứng minh rằng: Nông dân, nông nghiệp, nông thôn đã trở thành “trụ đỡ” của kinh tế - xã hội Việt Nam trong những điều kiện và kể cả thời điểm khó khăn nhất. Niềm tin với Đảng, Nhà nước, với chế độ vẫn là dòng chủ lưu chính trong tư tưởng, tình cảm, nhận thức và hành động của nông dân. 

*** Tiêu đề bài viết do Dân Việt đặt

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem