Nguyễn Hiếu
Thứ sáu, ngày 07/08/2020 06:04 AM (GMT+7)
Đó là chưa kể đôi ba chiếc thì thành xe bung một vài ốc vít nên khi xồng xộc lướt trên con đường mấp mô, những tấm tôn ốp thành hình xe lật phật kêu lên những tiếng xành xạch, cộng với tiếng đập những đôi quang gánh, thúng mủng của mấy bà đi chợ xỏ tòng teng sau xe, trên nóc xe nghe vui ra phết.
Lúc nào tôi cũng thấy nó cũ kỹ, nhom nhem, xộc xệch và lành phành. Đó là chưa kể đôi ba chiếc thì thành xe bung một vài ốc vít nên khi xồng xộc lướt trên con đường mấp mô, những tấm tôn ốp thành hình xe lật phật kêu lên những tiếng xành xạch, cộng với tiếng đập những đôi quang gánh, thúng mủng của mấy bà đi chợ xỏ tòng teng sau xe, trên nóc xe nghe vui ra phết.
"Chuồng gà bay" một thuở
Lần đầu tiên đi xe buýt nếu tôi nhớ không nhầm là vào những năm nửa cuối của thập niên 70 của thế kỷ 20, đâu như quãng 77, 78 thì phải. Khi có chiếc xe buýt đầu tiên lên đậu ở bến cuối là chỗ Trạm trung Thủy Nông Thụy Phương, mà dân làng tôi gọi là Cầu Sông nơi nối sông Hồng và Nhuệ Giang (dân làng tôi gọi nôm là sông Đào), người Chèm tôi mừng lắm. Những năm có chiếc xe buýt đến làng Chèm tôi là thời ông Thứ trưởng đi xe Mốt cô vich trắng, ông Bộ trưởng đi xe Von ga đen đều là xe công nhà nước cấp. Thực phẩm thì phu nhân của hai loại cán bộ cấp cao này vào mua tại các cửa hàng cung cấp ở Nhà Thờ, Đặng Dung và nhất là Tôn Đản… Những chiếc xe buýt hồi đó đa phần được đóng từ Nhà máy xe ca Ba Đình, địa điểm ở xế chợ Ngọc Hà. Máy móc, động cơ thì nhập ở nước ngoài như Giải phóng, Mô Nô…Thùng xe, bệ xe đóng lấy, sơn thì rặt màu lá sim, lá chuối úa. Không hiểu có phải vì xe buýt chạy đa phần ở đường xấu hay là do chất lượng đóng xe độ ấy mà hồi đó, tôi chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe buýt nào chạy tuyến Chèm - Hàng Vôi lại có vẻ mới.
Giờ đây những chiếc xe buýt lành phành, bẩn thỉu "chuồng gà bay" vĩnh viễn đã không còn trên đường phố Hà Nội. Không những thế trong hơn một nghìn xe buýt đang lưu hành đã có tới hơn 40% đạt tiêu chuẩn Euro II.
Lúc nào tôi cũng thấy nó cũ kỹ, nhom nhem, xộc xệch và lành phành. Đó là chưa kể đôi ba chiếc thì thành xe bung một vài ốc vít nên khi xồng xộc lướt trên con đường mấp mô, những tấm tôn ốp thành hình xe lật phật kêu lên những tiếng xành xạch, cộng với tiếng đập của những đôi quang gánh, thúng mủng của mấy bà đi chợ xỏ tòng teng sau xe, trên nóc xe nghe vui ra phết. Chả thế mà xe buýt độ ấy thường được dân gọi là "chuồng gà bay".
Cánh báo chí thì được Công ty xe khách Thống Nhất tặng cho những tấm vé biếu, hết năm lại xuống Công ty đổi lấy vé mới. Công nhân viên chức thì mua vé tháng. Đa phần từ ngoại thành vào nên người nào người nấy xách tòng teng cặp lồng đựng suất cơm trưa. Dạo đó, đời sống tầng lớp nào cũng khó khăn, kỷ luật xe buýt không nghiêm, nên anh em tài xế rất thích chở những bà đi chợ, mà có vẻ ngán mấy anh vé tháng. Cho nên cánh xe buýt bị dân chỉ mặt đặt tên là chỉ "đón quang gánh mà tránh cặp lồng". Dân vé tháng bực lắm, nên thư từ phản ánh nhan nhản gửi về đàì báo, Công ty. Thế là những cuộc họp báo do Công ty xe khách Thống Nhất liên tục nhóm họp rồi cùng đi kiểm tra để giải thích cắt nghĩa tình trạng dân kêu. Không hiểu sao chuyến kiểm tra đột xuất nào, đoàn nhà báo cũng không phát hiện ra hiện tượng "đón quang gánh, tránh cặp lồng" nào…
Vợ chồng tôi ở ngoài thành phố, nên cứ lăm lăm ngày cuối tuần là bố con tôi lại tranh thủ về thăm ông bà ở làng. Lễ mễ hết dắt lại bế con ra được đến bến gốc tuyến Hàng Vôi - Chèm, thêm một giờ hơn giờ ngót nữa mới thấy xe đến. Lưng cõng con, tay xách túi chen chúc giữa những tấm lưng mặn chát mồ hôi lên được xe. Những hàng ghế chật ních. Loay hoay mãi tôi cũng tìm được chỗ đặt chân. Rồi cứ thế cõng con đứng chồn chân suốt cả chặng đường 12 cây số.
Tôi cũng như hầu hết khách trên xe đều cố nghển cổ, dướn lên để hớp chút không khí hiếm hoi bên ngoài lọt vào. Có lần, có một anh bộ đội về phép thương cảnh cõng con lếch mếch của tôi, định nhường ghế nhưng xe đông quá, anh bộ đội tốt bụng cũng không thể đứng lên cho bố con tôi ngồi xuống.
Mùi mồ hôi, mùi hơi mồm, mùi hôi nách, cộng với mùi bụi đường, mùi khói ôtô khét lẹt tạo thành thứ mùi khó tả... Vậy mà chốc chốc lại có tiếng kêu "Ái, ái dẫm chết chân tôi rồi","Ơ cái nhà anh này, làm gì thế hả?", "Thì đông quá, người ta xô đẩy chẳng may chứ quý báu lắm mà người ta động với chạm"… Nếu hồi đó tôi đã vào độ tuổi như hôm nay chắc tôi không dám đi xe buýt để về quê nữa…
Còn đến thời nay, đã ngoại tuổi thất thập, mỗi lần về Chèm, tôi lại lững thững ra trạm xe buýt để đón xe. Có lẽ hôm nao lâu nhất cũng chỉ khoảng 15 phút, là chiếc xe buýt tuyệt đẹp, bóng bảy với màu sắc và hình dáng hiện đại không kém gì những chiếc xe buýt tôi đã từng đi ở Matxcơva (Nga), ở Sê un (Hàn Quốc), hay Man mo (Thụy Điển). Đó là những chiếc xe được đóng trong nước nhưng liên doanh và sử dụng công nghệ của các hãng nổi tiếng nước ngoài như Hun Đai, Đai U, Sác co, Trường Hải…
Lên xe, tôi chưa kịp tìm được chỗ ngồi thì đã có một cháu lễ phép đứng lên nhường ghế. Cháu nào chưa kip nhường, phụ xe nhắc ngay. Tôi ngồi xuống yên vị rồi giở báo ra đọc. Tiếng nhạc, hay tiếng chương trình an toàn giao thông của Đài Tiếng nói Việt Nam hay tiếng quảng cáo về văn minh và nội quy xe buýt êm êm cất lên. Ngoài trời nóng bức là vậy, nhưng trong xe là không khí mát rượi bởi nhiệt độ của điều hòa không khí. Đang chăm chú vào bài báo, bỗng tôi nghe thấy tiếng nói lễ phép của anh phụ xe "Con xin phép bác đi vé tháng hay vé ngày ạ"...
Cứ như theo tôi - một hành khách đi xe buýt thâm niên - thì xe buýt Hà Nội đã có từ tròm trèm gần 50 năm về trước. Giờ cái địa điểm nổi tiếng của Công ty xe buýt Thống Nhất thuở ông Ngô Quốc Minh làm giám đốc ở 32 Nguyễn Công Trứ đã là trụ sở của Tổng công ty vận tải Hà Nội với cái tên giao dịch Transerco nghe vang lên như độ lướt êm ả của xe buýt hiện nay.
Không kể từ hồi xe buýt Hà Nội trong cái vỏ chật hẹp, lành phành chạy túc tắc chuyến được, chuyến không bên cạnh tàu điện leng keng mà chỉ tính từ năm 2001 được Ủy ban Nhân dân TP. Hà Nội, rồi Chính phủ cho nâng cấp lên thành tổng công ty cũng đã thấy một trời một vực.
Năm 2001, Transerco mới có 30 tuyến xe, với 262 xe cùng lượt vận tải hành khách mới dừng ở con số khiêm tốn là 15,3 triệu lượt hành khách, thì đến năm 2014 số tuyến đã lên đến con số 53, với tổng số xe là 985 và số lượt hàng khách vận chuyển đạt tới 401 triệu hành khách.
Đến năm nay thì chỉ nhìn vào sơ đồ các tuyến xe buýt chạy trong địa phận nội đô đã thấy như một mạng lưới dầy đặc bao phủ toàn bộ những địa điểm chính của thủ đô Hà Nội. 16 tuyến hướng tâm,13 tuyến xuyên tâm, 20 tuyến tiếp tuyến, và 4 tuyến đường vòng rồi 2 tuyến ra Sân bay Quốc tế Nội Bài. Với sự phát triển của mình Trancerco chiếm tỷ lệ 82,1% phương tiện buýt của toàn thành phố, về lý thuyết làm giảm 122.500 xe máy…
Giờ đây những chiếc xe buýt lành phành, bẩn thỉu "chuồng gà bay" vĩnh viễn đã không còn trên đường phố Hà Nội. Không những thế, trong hơn một nghìn xe buýt đang lưu hành đã có tới hơn 40% đạt tiêu chuẩn Euro II.
Trong phục vụ thì lấy"cung cấp và làm hài lòng khách" là mục tiêu hàng đầu, làm sao khách cảm nhận được tiện ích của xe buýt công cộng. Vì thế nên các nguyên tắc của một lộ trình xe buýt hiện đại là chạy đúng tuyến, trả khách đúng điểm, chở đúng đối tượng, bán vé đúng giá, xe sạch sẽ, phục vụ an toàn, văn minh, không chở hàng hóa, hành lý cồng kềnh, chạy đúng giờ, giá rẻ hấp dẫn, phù hợp với thu nhập, được nhà nước trợ giá vé…Trên xe còn sử dụng hàng loạt công nghệ hiện đại để phục vụ nhu cầu tối đa cho hành khách. Đó là công nghệ GPS, Led, camera để tích hợp hệ thống thông tin, âm thanh trên mỗi chuyến xe…
Tôi giở cuốn sổ công tác ghi chép cách đây chòm chèm 50 năm, thấy có dạo mỗi tuần Công ty xe khách Thống Nhất có từ 2.000- 3.000 thư hành khách gửi đến cơ quan đài, báo chủ yếu để phê phán thái độ phục vụ. Còn những năm gần đây, Trancerco nhận được 66.486 thông tin quy ra cứ 1.000 lượt xe thì có 4,6 lượt tin trong đó có tỷ lệ 99% khách hàng bày tỏ sự hài lòng khi đi xe buýt Hà Nội.
Tin mới nhất là gần đây những hành khách từ 60 tuổi trở lên hay gia đình có công với cách mạng còn được đi xe buýt miễn phí. Nếu chưa kịp làm thẻ miễn phí chỉ cần đưa chứng minh thư ra là được đi xe.
Gần nửa thế kỷ đi xe buýt đã thấy trình độ xe buýt Hà Nội xưa nay khác nhau một trời một vực. Tuy vậy cũng cần thấy rõ một điều; Xe buýt hay là vậy nhưng Việt Nam ta trong hai thập niên qua vẫn nổi tiếng là quốc gia của xe máy. Có lẽ chỉ đứng sau Đài Loan. Nước ta có hơn 90 triệu dân mà có tới gần 43 triệu xe máy. Bình quân 1.000 dân có 460 xe máy (con số này của Đài Loan là hơn 600). Ở Hà Nội thì con số này lại khủng khiếp hơn khi chỉ hơn 8 triệu dân nhưng xe máy và xe đạp điện lên con số xuýt xoát 6 triệu xe. Nghĩa là 0,75 người có một xe máy. Theo con số của Phòng CSGT cho biết thì xe máy chiếm tới 86% phương tiện giao thông của người Hà Nội. Chính vì lẽ đó nên Hà Nội được mệnh danh là thủ đô xe máy quả không sai.
Xe buýt Thủ đô đã tiến bộ như vậy tại sao chưa có sức hút đối với người Hà Nội. Đơn giản bởi xe buýt chắc chắn còn nhiều bất cập. Bất cập ở việc bố trí các điểm chờ quá mau (từ 500-600m/điểm chờ trong khi về nguyên tắc khoảng cách này là 700m). Điều này tạo thuận lợi cho người đi nhưng lại làm chậm tốc độ xe buýt.
Bất cập thứ hai cũng tại điểm chờ là trong tất cả 1.900 điểm chờ thì có tới 11% điểm chờ không có mái che, thậm chí các điểm chờ trên đường 5 có khi chỉ có một cọc sắt và biển báo điểm chờ. Thời tiết Hà Nội khi những ngày nắng hè gay gắt, ngày đông gió bấc, mưa phùn… Khách đi xe buýt làm sao chịu nổi mưa dầu, nắng rãi.
Về phương tiện, đường Hà Nội quá chật trong khi xe buýt thường quá dài (ít nhất 11m) cũng là một trong những nguyên nhân gây ách tắc.
Thêm vào đó Hà Nội giờ liên tục mở thêm đường, điểm dân cư mới trong khi các điểm chờ của xe buýt chưa tới…Dân vùng này đành đi xe máy. Đó là chưa kể hoàn cảnh khách quan. Hà Nội là thành phố nổi tiếng về ách tắc. Mỗi lần bị ách tắc như vậy nhà xe thường đột ngột đổi hướng, đổi tuyến, không dừng ở những điểm quen làm dân đi xe buýt thêm khốn khổ vì tìm phương tiện về nhà mình, về nơi làm việc…
Vui lòng nhập nội dung bình luận.