Lời giải cho vùng đất khó
Ngày cây cao su mới vào đất Lai Châu ở dạng quy hoạch đại điền, việc dồn đất, góp đất đã tốn không biết bao nhiêu công sức của các cán bộ tuyên truyền. Người dân lo lắng vì không còn đất để tiếp tục sản xuất, lo vì con trâu, con dê chẳng biết thả ở đâu, lo đến cả sự thay đổi nếp ăn nếp nghĩ đã hình thành qua bao đời...
|
Những ngày nông nhàn, người dân tham gia chăm sóc cây cao su để tăng thu nhập. |
Đến nay, hơn 6.000ha cao su đã bén rễ trên các vạt đồi, núi trọc ở Lai Châu - nơi bản làng vốn thanh bình, yên tĩnh, con người thì cứ cặm cụi làm ăn theo cái mệnh như trời đã đặt. Tại các xã vùng thấp của huyện Sìn Hồ, chúng tôi thấy những hàng cao su trải dài như đến tận chân trời, lá xanh mỡ màng dọc hai bên con đường mới được nâng cấp, mở rộng, trải nhựa phẳng lỳ.
Những vạt đồi cao su xanh ngút ngàn này như chứa đựng một thông điệp: Loài cây này có thể chống chọi được với thời tiết khắc nghiệt ở Lai Châu. Vượt qua trở ngại này, dường như bài toán chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở Lai Châu nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung đã có lời giải xác đáng.
Theo Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, trong 3 năm qua, toàn vùng Tây Bắc đã trồng phát triển gần 15.000ha cao su. Nhìn chung, diện tích cao su này trồng đều sinh trưởng khá, không thua kém các vùng trồng cao su truyền thống.
Những cây cao su trồng ở các tỉnh vùng Tây Bắc không hề bị suy kiệt bởi những trận rét đậm, rét hại mà vẫn phát triển bình thường, ít sâu bệnh, đạt độ cao trung bình từ 3-5m.
Dự kiến, vườn cây cao su trồng năm 2008 - 2009 đến năm 2013 - 2014 sẽ cho thu hoạch. Khi vườn cây cao su khép tán, không chỉ có những giọt "vàng trắng" và nhà máy chế biến mủ ra đời mà hàng nghìn lao động nông thôn sẽ có việc làm, giúp họ có thể gắn bó với rừng, sống được với rừng.
Đổi thay bản nghèo
Đi đến các xã vùng thấp của huyện Sìn Hồ, chúng tôi đều nghe được những con số có thể nói là mơ ước về thu nhập của bà con đồng bào dân tộc vùng cao làm công nhân cho các công ty cao su. Những lao động phổ thông làm việc theo thời vụ, hưởng lương công nhật thì ít cũng được 80.000 đồng/ngày, còn những người là công nhân chính thức thì trung bình thu nhập từ 2 - 3 triệu đồng/tháng.
Với mức thu nhập "tầm tầm" như vậy cùng với con số hơn 6.000 công nhân (chưa tính lao động thời vụ với đa số là đồng bào dân tộc địa phương) thì cây cao su đã làm được điều mà nhiều chính quyền các tỉnh vùng Tây Bắc mơ ước về xoá đói giảm nghèo.
Với mức thu nhập "tầm tầm" như vậy cùng với con số hơn 6.000 công nhân (chưa tính lao động thời vụ với đa số là đồng bào dân tộc địa phương) thì cây cao su đã làm được điều mà nhiều chính quyền các tỉnh vùng Tây Bắc mơ ước về xoá đói giảm nghèo.
Anh Quàng Văn Trung ở bản Pá Khôm 2, xã Nậm Tăm là công nhân thời vụ của Công ty cổ phần Cao su Lai Châu. Anh thường được giao đổ bê tông cọc rào, mỗi cọc anh được trả 6.000 tiền công. "Trung bình mỗi ngày tôi làm được 20 cọc, thu được khoản tiền công 120.000 đồng, ngày cao điểm có thể đổ được 30 cọc, kiếm ngót nghét gần 200.000 đồng" - anh Trung vui vẻ.
Cây cao su cũng mang tới những vận hội phát triển mới cho những bản vùng cao. Trong những ngày đầu ra quân trồng cao su ở xã Nậm Quẩy (Sìn Hồ) vào năm 2008, chỉ sau vài ngày mưa, giao thông ách tắc mất mấy ngày mà gần 1.000 thanh niên tình nguyện ở đây phải đối mặt với cảnh hết gạo, hết rau vì không thể "tiếp tế" kịp.
Thế nhưng, hôm nay ở Nậm Quẩy đã có quán ăn sáng, ăn đêm, nhận làm cơm đặt và khách hàng thì chủ yếu là đồng bào nơi này. Anh Nguyễn Khắc Vũ - cán bộ Công ty cổ phần Cao su Lai Châu, nhận xét: "Người dân phải có tiền mới có thể ăn quán. Khi họ biết ăn quán thì họ đã biết kiếm tiền để ăn. Tại nơi khó khăn như vậy thì việc đi làm công nhân cao su đã và đang là một phong trào. Bây giờ, họ làm để đáp ứng nhu cầu trước mắt, trong tương lai sẽ tích luỹ và làm giàu".
Thuận Du
Vui lòng nhập nội dung bình luận.