Thập Tam Lăng của nhà Minh: Lăng nào lớn nhất, lăng nào nhỏ nhất?
Thập Tam Lăng của nhà Minh: Lăng nào lớn nhất, lăng nào nhỏ nhất?
MA
Thứ sáu, ngày 17/11/2023 22:27 PM (GMT+7)
Trường Lăng - nơi chôn cất hoàng đế thứ 3 nhà Minh - Vĩnh Lạc đế Minh Thành Tổ (Chu Đệ) là lăng lớn nhất và đẹp nhất tại Thập Tam Lăng. Trong khi đó, Chiêu Lăng - nơi chôn cất Minh Mục Tông, có quy mô nhỏ nhất...
Khu di tích Thập Tam Lăng tọa lạc ở chân núi Thiên Thọ thuộc huyện Xương Bình, cách Bắc Kinh 50km về phía Tây Bắc. Theo quan niệm của người xưa, vị trí hợp phong thủy phải là nơi hóa giải được ma quỷ và phong tà từ phương Bắc xuống. Vì vậy, người xưa đã chọn khu vực hình vòng cung ở chân núi Thiên Thọ để xây lăng. Khu vực này là một thung lũng yên tĩnh rộng khoảng 40 km2, bốn bề có núi bao bọc, rất lý tưởng để làm nơi yên nghỉ của các vị hoàng đế nhà Minh. Không chỉ có địa thế hợp phong thủy và phong cảnh hữu tình, khu vực này còn có ý nghĩa chiến lược về mặt quân sự bởi có núi như bức bình phong bảo vệ.
Với dụng ý vinh danh triều đại của mình, 7 năm sau khi lên ngôi, Chu Đệ bắt đầu cho xây dựng khu lăng mộ Minh triều, về sau được biết đến với tên gọi "Minh triều Thập Tam Lăng", là nơi yên nghỉ của 13 hoàng đế nhà Minh (hai vị hoàng đế đầu chôn ở Nam Kinh, và vị hoàng đế cuối cùng chôn ngay trong Tử Cấm Thành). Ngoài ra, theo sử cũ, còn có 23 hoàng hậu, 1 quý phi và 10 hoàng phi được an táng tại đó, có nhiều người bị tuẫn táng (chôn sống) theo phong tục của các hoàng đế đầu thời nhà Minh.
Ròng rã trong 235 năm, Thập Tam Lăng được xây dựng liên tiếp qua nhiều triều đại, từ thời Minh Thành Tổ Chu Đệ đến khi nhà Minh sụp đổ. Khu lăng tẩm này rộng hơn 40km2 với tường thành bao bọc (tổng độ dài 40 km). Lăng của mỗi hoàng đế năm trên một gò núi, bốn bề là cây cối tốt tươi, rất "chuẩn" và hòa hợp với thiên nhiên về mặt Phong Thủy; các lăng mộ nằm theo hướng Bắc - Nam, nối với nhau bằng một con đường mang tên Thần Lộ dài chừng một dặm (1,7 cây số), nằm giữa hai rặng núi Hổ Sơn và Long Sơn. Hai bên đường rợp bóng dương liễu tươi mát và có tới 36 tượng đá - cao gần 4 m, hình thù rất sinh động -, gồm bá quan văn võ, lính gác, voi, ngựa, lạc đà, sơn dương và những linh vật (long, lân, quy) để canh giữ lăng. Cổng đá vào lăng xây năm 1540 với vóc dáng bề thế: cao 14 mét, và rộng 19 mét.
Trong suốt giai đoạn nhà Minh cai trị, dân thường không được phép đặt chân đến quần thể lăng mộ này. Tuy nhiên, vào năm 1644, quân nổi dậy do Lý Tự Thành lãnh đạo đã đến cướp phá và thiêu rụi nhiều lăng mộ ở đây trước khi tiến vào Bắc Kinh. Ngày nay, quần thể này mở cửa cho du khách đến tham quan. Điểm tham quan hầu như đều làm mọi du khách phải ngạc nhiên, vì nhiều điều liên quan đến khu lăng mộ này đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn và thách thức.
Lối đi dẫn đến các lăng dài 7 km và có tên gọi là Thần Đạo. Nó tượng trưng cho phẩm giá và uy quyền của hoàng đế nhà Minh ngay cả sau khi mất. Lối vào Thần Đạo là một cổng vòm được xây bằng đá vào năm 1540. Dọc hai bên Thần Đạo có đặt 36 bức tượng bằng đá, bao gồm 24 tượng sư tử, voi, lạc đà và 12 tượng quan văn, võ trong triều. Người ta nói rằng những bức tượng này tham gia vào các nghi lễ của triều đình và cung nghinh các vị thần thuộc thế giới bên kia.
Hiện nay, vì lý do bảo tồn và công tác khai quật, phục vụ nghiên cứu nên điểm du lịch này chỉ cho phép khách thập phương tham quan ba lăng là Trường Lăng của Vĩnh Lạc Đế (hoàng đế thứ ba của nhà Minh), Định Lăng của Vạn Lịch Đế (hoàng đế thứ 13) và Chiêu Lăng của Long Khánh Đế (vị hoàng đế thứ 12).
Trường lăng là lăng lớn nhất và đẹp nhất. Những câu chuyện về việc xây dựng lăng, kiến trúc lăng và lối vào lăng vẫn là ẩn số thú vị, chắc chắn không một du khách nào muốn bỏ lỡ.
Trường Lăng, nơi hoàng đế Vĩnh Lạc yên nghỉ. Đây là khu lăng mộ đầu tiên ở về phía Bắc, mô phỏng theo kết cấu của Tử Cấm Thành với những lầu điện xe kẽ nhau, tường đỏ ngói vàng, biểu hiện địa vị tôn quý bậc nhất của hoàng đế Trung Hoa.
Kiến trúc chủ đạo của Trường Lăng là Lăng Ân Điện (điện Lăng Ân) - tòa kiến trúc hiển hách nhất Thập Tam Lăng vào thời Trung Quốc cổ đại. Lăng Ân Điện có ý nghĩa cảm tạ ơn đức, vua chúa đời sau đến đây bái tế tổ tiên và cầu xin quốc thái dân an. Lăng Ân Điện được xây dựng phỏng theo kiến trúc Thái Hòa Điện với hàm ý ở cõi âm, hoàng đế vẫn có uy quyền tối cao. Đây là tòa cung điện vô cùng hùng vĩ.
Hoa văn trang trí của cung điện không phức tạp mà theo khuynh hướng mộc mạc, đơn giản và trang nghiêm. Nhưng điều sẽ làm cho du khách phải trầm trồ khi biết cung điện được chống đỡ bởi 60 cây cột được chế tác từ cây nam mộc, mỗi cây cao 12m, đường kính 1m. Đây là loại gỗ quý chỉ mọc ở khu vực rừng núi Tứ Xuyên và Vân Nam, số lượng khai thác ít ỏi, trồng trong thời gian 400 - 500 năm mới sử dụng thân gỗ, chất lượng gỗ cứng bền chắc. Đây được xem là vật liệu xây dựng cao cấp và quý giá nhất Trung Quốc. Giá trị của cây gỗ nam mộc còn quý giá hơn vàng. Nghe nói ngày xưa, chỉ riêng việc đưa được 60 cây gỗ này từ nơi sinh trưởng về đây, triều đình phải huy động 20.000 dân công làm việc cật lực trong suốt 3 - 4 năm. Mùa hè, người ta phải đợi lũ lên rồi thả gỗ xuôi dòng. Mùa đông, dọc đường chuyển gỗ, cứ cách một quãng, người ta lại đào một cái giếng, múc nước đổ lên mặt đường, đợi cho đóng thành băng trơn trượt rồi dùng sức người từ từ kéo gỗ.
Sau Lăng Ân Điện một quãng là một tòa lầu hình vuông nhỏ hơn, cao sừng sững, gọi là Minh Lâu (lầu Sáng), đây là kiến trúc tiêu biểu của lăng mộ đế vương triều Minh. Bên trong Minh Lâu đặt bia mộ của mộ chủ; từ ngôi lầu này vươn ra dãy tường vây quanh một ụ đất hình tròn (gọi là Bảo Đỉnh), vươn cao như một khu đồi, ngầm dướt mặt đất vài chục mét có lẽ là phần mộ của Chu Đệ. Tuy nhiên, sợ hậu thế phá vỡ sự yên tĩnh của lăng mộ, người xưa xây dựng mộ rất kiên cố và giấu kín bí mật đường vào mộ. Do đó, ở Trường lăng và 11 lăng khác (trừ Định lăng), hiện tại các nhà khoa học vẫn chưa tìm được cách nào vào trong mà không phá vỡ kết cấu lăng mộ.
Không như Trường Lăng, Định Lăng đã được các nhà khảo cổ khai quật hoàn toàn. Đây là lăng tẩm lớn thứ ba trong quần thể lăng mộ nhà Minh, chỉ sau Trường Lăng và Vĩnh Lăng. Tham quan Định Lăng, du khách sẽ có dịp khám phá trọn vẹn địa cung, tìm hiểu bí mật cách mở cửa lăng qua tấm bia đá nhuốm màu thời gian.
Trước đó, các nhà khảo cổ Trung Quốc chọn Trường lăng làm mục tiêu khảo sát, khai quật nhưng không tài nào tìm được lối vào. Sau đó, họ chọn Định lăng (một lăng nhỏ nằm ngoài rìa) để nếu có thất bại cũng không làm hỏng cấu trúc Trường lăng - lăng lớn nhất và đẹp nhất. Công cuộc khai quật nhiều lúc tưởng đã lâm vào ngõ cụt. May mắn là trong khi đào bới, các nhà khảo cổ tìm được một tấm bia đá miêu tả kỹ càng về cách mở cửa Định lăng. Nhờ tấm bia đó, toàn bộ phần địa cung của Định lăng đã được khai quật.
Tại sao đường vào Định lăng - một bí mật đáng lẽ phải hủy đi lại được tạc vào bia đá? Định lăng được xây vào năm Vạn Lịch Đế 21 tuổi, sáu năm sau hoàn thành. Nhưng mãi đến 30 năm sau, ông ta băng hà khi 58 tuổi, lăng mới được sử dụng. Một giả thuyết cho rằng, những người xây lăng 30 năm trước đã lưu lại tấm bia để mai sau, lúc an táng vua, khỏi quên đường vào. Lúc an táng Vạn Lịch Đế, triều đình nhà Minh đang gặp nhiều rối ren về mặt chính trị nên quên bẵng luôn việc hủy tấm bia.
Địa cung Định lăng nằm trong lòng một ngọn đồi xanh um cây cối, sâu 27m so với mặt đất. Toàn địa cung rộng 1.195m2, gồm năm phòng, nối với nhau bằng những hành lang dài hun hút. Ở gian phòng chính giữa đặt ba chiếc áo quan. Chiếc áo quan lớn nhất chính giữa là của Vạn Lịch Đế, hai bên là hai hoàng hậu. Cùng chôn chung với vua và hoàng hậu là 26 chiếc rương, chứa vô số cổ vật quý báu như ngọc, trang sức vàng, bạc, đồ sứ, gấm vóc, trang phục… Toàn bộ hơn 3.000 cổ vật khai quật tại Định lăng được trưng bày ở một bảo tàng nhỏ phía trên.
Trong số ba lăng tẩm mở cửa cho du khách tham quan, Chiêu Lăng có quy mô nhỏ nhất. Điểm nổi bật ở lăng tẩm này là quan tài của hoàng đế được đặt ở một nơi có hình trăng lưỡi liềm độc nhất vô nhị. Điểm thú vị khác nữa là công trình trên mặt đất, dù mới được xây dựng lại, thể hiện bố cục điển hình của các lăng tẩm thời nhà Minh.
Với đa phần kiến trúc còn nguyên vẹn, Thập Tam lăng là một kho báu to lớn về văn hóa, khảo cổ và du lịch, được UNESCO công nhận di sản thế giới vào năm 2003.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.