Lúa chét không ngon như lúa chính vụ, năng suất cũng không cao nên trước đây người quê không mấy quan tâm tới chúng mặc dù không phải vất vả hay nhọc nhằn gì nhưng giờ thì đã khác, chỉ cần thêm ít phân bón là lúa chét cũng thành của ăn, của để.
Trong cái lạnh tê tái của ngày đông có lẽ gian bếp là nơi thích hợp nhất để người quê ngồi nhâm nhi cái thú nông nhàn. Bên đĩa lạc hay ngô rang giòn người ta có nhiều chuyện để hàn huyên, tâm sự, ôn cố tri tân hay cầm kỳ thi tửu nhưng không thể mãi thế khi mà rương thóc đã thủng đáy nên người ta đành phải cắp thúng mủng ra đồng làm cái chuyện muôn năm cũ là tuốt lúa chét. Đó cũng là công việc thường xuyên của người làm thuê, cuốc mướn tay làm hàm nhai và cũng bởi họ không hề có tấc đất cắm dùi.
Việc gì cũng có thể dừng nhưng cuộc sống thì không. Rương thóc luôn là nỗi trăn trở của người quê khi mà năm sắp cùng, tháng đang tận nên ngày ngày họ vẫn ra đồng nhặt nhạnh những hạt lúa trời cho ấy. “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"...
Ảnh minh hoạ (internet)
Năm nào cũng vậy, mẹ tôi thường nấu một nồi cơm gạo mới dâng cúng ông bà trước tiên nhưng luôn là lúa chét bởi gia đình tôi sống bằng nghề chằm lưới và chẳng có ruộng đất gì. Tôi cũng không hiểu tại sao mẹ tôi chọn loại lúa này mà không phải là lúa mùa nhưng tôi chắc là mẹ vui và tự hào vì hạt lúa đó có từ mồ hôi và công sức của mẹ.
Ngày đó tôi cũng thường theo mẹ đi mót lúa nhưng không dám tuốt bởi lá lúa khá sắc và cạnh hạt lúa cũng khá bén vì thế tôi ngắt cả chùm bông rồi bỏ vào rổ mang về, công việc còn lại là của mẹ hay những người thân trong gia đình.
Cơm gạo lúa mới có mùi thơm đặc trưng, nó là hỗn hợp của hương quê, hương đồng, hương lúa và hương tần tảo của người quê. Lúa chét cũng thế. Cơm gạo mới ăn với muối mè là ngon nhất bởi người ăn có thể phân biệt và cảm được hai mùi vị rất đồng quê này mà không bị khoả lấp như khi ăn với cà dưa hay cá thịt. Cách đây không lâu lúa chét còn là bữa ăn ngon cho đàn vịt thả đồng bởi giá lúa không thể bù vào giá công thu hái còn giờ thì máy móc đã thay người nên đất cát cũng không thể nghỉ ngơi. Người ta đã xen canh giữa hai vụ lúa bằng một vụ màu thay vì là bỏ đồng trống hoặc để lúa chét tự sinh.
Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Quê tôi còn nhiều gia đình neo đơn vất vả lắm nên lúa chét vẫn là cứu cánh của họ khi mà mùa bão lũ, lụt lội luôn chờ chực hoành hành. Hạt lúa cho dù là lúa gì cũng là hạt ngọc nên lúa chét cũng được người quê yêu quý xiết bao. Đó là một nét đẹp mà quê tôi còn giữ tới giờ.
Cuối đông trời se se lạnh, ngồi ấm áp trong bốn bức tường xây ở phố bỗng dưng thương quê đến cồn cào. Thương những mảnh đời áo tơi, nón vá chênh chao trên dòng nước nổi đục ngầu để thu hái những bông lúa chét mong manh cuốn theo chiều nước. Gợi nhớ đến mình ngày nào mà thương xót vô bờ, mà khoé mắt cay...
(Theo báo Quảng Bình)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.