Thứ khoai mỡ tím lịm, bổ dưỡng của vùng Bến Kè, Long An vừa nhận được một chứng nhận quan trọng
Long An: Loại khoai mỡ tím lịm, giàu khoáng chất của vùng Bến Kè vừa nhận được một chứng nhận quan trọng
P.V
Thứ sáu, ngày 26/08/2022 19:12 PM (GMT+7)
Cục Sở hữu trí tuệ vừa cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm khoai mỡ Bến Kè. UBND huyện Thạnh Hóa (tỉnh Long An) là tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý này.
Từ năm 1975, Bến Kè được biết đến là vùng đất của củ khoai mỡ Bến Kè. Cây khoai mỡ với giống bản địa được người dân địa phương đưa vào cơ cấu cây trồng chủ lực của địa phương nhằm góp phần đa dạng hóa cây trồng địa phương và gia tăng sản xuất.
Đến nay, toàn bộ huyện Thạnh Hóa đã tập trung sản xuất khoai mỡ với hơn 2.799 ha với năng suất trung bình 15 tấn/ha, sản lượng 41.506 tấn, giá bán bình quân 8.000 đồng/kg, lợi nhuận thấp nhất là 40 triệu đồng/ha.
Sản phẩm củ khoai mỡ không chỉ được phân phối trong phạm vi khu vực nhỏ hẹp của địa phương mà còn vươn mình đến tận khu vực Châu Âu, Trung Quốc, Nhật và Campuchia, mang lại niềm tự hào của vùng đất Thạnh Hóa.
Khoai mỡ Bến Kè của huyện Thanh Hóa, Long An vừa được công nhận chỉ dẫn địa lý. Ảnh: moit.gov.vn.
Theo Trung tâm Thẩm định chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu quốc tế, củ khoai mỡ Bến Kè có hình trụ tròn, dài thuôn đều, ít phân nhánh, trọng lượng củ lớn (1,7 – 2,5 kg/củ với khoai mỡ trắng, 0,9 – 1,7 kg/củ với khoai mỡ tím), thân củ có nhiều rễ phụ, bề mặt cắt nhớt, có nhiều chất nhầy, hạt tinh bột có hình tròn phân bố đều, có ranh giới rõ.
Củ khoai mỡ trắng Bến Kè có hàm lượng nước: 66,2 – 69,6%; hàm lượng tinh bột: 24,4 – 27,9%; hàm lượng Kali: 3,1 – 4,9 mg/100g; hàm lượng Mangan: 1,9 – 8,4 mg/100g. Củ khoai mỡ tím Bến Kè có hàm lượng nước: 70,3 – 72,8%; hàm lượng tinh bột: 17 – 22,2%; hàm lượng Kali: 2,1 – 4,9 mg/100g; hàm lượng Mangan: 1,6 – 10,5 mg/100g.
Khoai mỡ Bến Kè có những tính chất, chất lượng đặc thù như vậy là nhờ có điều kiện tự nhiên đặc trưng của khu vực địa lý. Khu vực địa lý có mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11 dương lịch. Nước lũ từ thượng nguồn theo các chi lưu, kênh rạch đã dâng lên và làm ngập lụt hầu hết diện tích canh tác của một số xã tại huyện Thạnh Hóa, trừ các gò cao.
Vùng trồng khoai mỡ Bến Kè, Thạnh Hóa, Long An. Ảnh: moit.gov.vn.
Sự xâm nhập của lũ hằng năm theo chu kỳ đã mang lại nhiều nguồn lợi đáng kể, trong đó phải kể đến nguồn phù sa màu mỡ, khoáng chất bồi tụ làm giàu dinh dưỡng cho đất, hạn chế sự phát triển của các dịch hại tác động đến cây trồng.
Ngoài ra, thời vụ sản xuất khoai mỡ của người dân tại Bến Kè cũng chịu ảnh hưởng từ mùa lũ, dẫn đến sự khác biệt với các khu vực sản xuất khoai mỡ khác. Người dân Bến Kè sẽ bắt đầu xuống giống vào tháng 12, chăm sóc cây khoai từ tháng 12 tới tháng 5 và thu hoạch từ tháng 6 tới tháng 8. Khi mùa lũ về vào tháng 9, đất sản xuất sẽ được để hoang, ngập lũ cho đến hết mùa lũ vào tháng 11.
Nhờ địa hình trũng thấp của vùng Bến Kè giúp củ khoai mỡ Bến Kè giàu tinh bột, hàm lượng nước thấp, giàu khoáng chất. Ngoài ra, lượng mùn cao trong đất đã tạo nên một kết cấu tơi xốp, khắc phục hiện tượng đất bị dí chặt, đất giữ nước và duy trì độ ẩm ổn định. Điều này hoàn toàn có lợi cho sự phát triển của cây có củ nói chung và khoai mỡ nói riêng.
Ngoài các điều kiện tự nhiên đặc thù, người dân Bến Kè cũng có những bí quyết sản xuất riêng, góp phần tạo nên tính chất, chất lượng đặc thù của củ khoai mỡ. Giống khoai mỡ được sử dụng là giống khoai mỡ trắng Mộng Linh, khoai mỡ tím than và tím bông lau bản địa.
Bến Kè là tên gọi của một trong 4 ấp thuộc xã Thủy Đông được hình thành từ khá sớm so với lịch sử khai phá vùng Đồng Tháp Mười (Theo địa bạ triều Nguyễn thành lập năm 1836), nằm ở vùng rìa của lòng chảo Đồng Tháp Mười. Từ xa xưa, nơi đây là vịnh biển ăn sâu vào đất liền, do sự tác động của hiện tượng biển thoái từ cách đây 6.000 năm, khu vực này được bồi lấp bởi phù sa, trầm tích của sông Tiền, sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.