Vị tướng đã xuất quân là thắng trong hai cuộc thế chiến

Quang Minh – Tổng hợp Chủ nhật, ngày 29/01/2017 14:55 PM (GMT+7)
Từ thực chiến tới chỉ huy, danh tướng người Mỹ luôn đạt được những kết quả rất xuất chúng.
Bình luận 0

img

Tướng MacArthur hút thuốc năm 1945.

Thế chiến II sản sinh nhiều vị tướng lỗi lạc ở cả hai bên, phe Trục và Đồng minh. Cuộc đời họ với nhiều nét li kì, những thành công vang dội và cả những sai lầm đau đớn... sẽ được điểm lại trong loạt bài này.

Tướng Douglas MacArthur sinh ra ở vùng Little Rock Barracks, bang Arkansas, Mỹ và gắn bó cuộc đời niên thiếu với quân đội Mỹ. Bố mẹ ông là những anh hùng trong cuộc Nội chiến Mỹ: Trung tướng Arthur MacArthur và Mary Pinkney MacArthur. Nhờ được nuôi dạy tốt, MacArthur lớn lên nổi tiếng là thông minh, dũng cảm, tư chất tốt và trở thành vị tướng 5 sao của quân đội Mỹ.

Những năm đầu đời

img

MacArthur khi là sinh viên trường học viện quân sự Tây Texas.

Khi còn nhỏ, MacArthur tới vùng xa xôi hẻo lánh của bang New Mexico với bố mẹ và anh cả Arthur. Họ được giao một số nhiệm vụ tiền đồn tại đây. Môi trường tuyệt vời ở Fort Selden đã giúp MacArthur biết cưỡi ngựa, bắn súng trước khi biết đọc, biết viết.

Năm 1883, khi MacArthur 3 tuổi, một người em của ông là Malcolm qua đời. Anh cả của MacArthur là Arthur sau đó gia nhập học viện hải quân Mỹ. Năm 1923, Arthur cũng chết khi đang là đại úy hải quân.

MacArthur khi còn trẻ đã mong mỏi rằng mình phải trở thành một học giả và chuyên gia hàng đầu về quân sự. Năm lên 6, ông cùng gia đình chuyển tới Kansas rồi sau đó là Washington. Tại thủ đô của nước Mỹ, MacArthur gần gũi ông nội mình là thẩm phán Arthur MacArthur. Ông nội đã truyền cho MacArthur nhiều bài học cuộc sống quý giá.

Năm 1893, ông gia nhập học viện quân sự Tây Texas và được chuyển tới học viện quân sự Mỹ năm 1898. Sau 4 năm rèn luyện ở West Point, ông là người xếp hạng số 1 trong số 93 học viên của lớp.

Thế chiến I nổ ra

MacArthur là chỉ huy sư đoàn “Cầu vồng” số 42 ở mặt trận phía tây nước Pháp trong Thế chiến I. Ông xây dựng sư đoàn này bằng việc tập hợp quân từ Lực lượng Vệ binh Quốc gia. Nhờ lòng trung thành và dũng cảm của những người lính, sư đoàn số 42 đã đạt nhiều thành tựu xuất sắc.

MacArthur trở thành người nổi bật nhất trong cuộc chiến này, đặc biệt là chiến thắng hai trận St.Mihiel và Meuse Argone. Ông hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc và chịu hai vết thương trên người. MacArthur có 13 huân chương và được trao tặng 7 lần thành tích dũng cảm trong chiến đấu.

img

Chuẩn tướng MacArthur năm 1918.

Tháng 8.1918, ông là Chuẩn tướng trẻ nhất trong lịch sử Mỹ. Ông phụ trách chỉ huy Lữ đoàn Bộ binh số 84. Ba tháng sau, ở tuổi 38, ông trở thành chỉ huy cấp sư đoàn trẻ nhất ở Pháp.

Trong cuộc chiến, MacArthur từng quay trở lại trường West Point và được bổ nhiệm làm người quản lý trẻ nhất trong 117 năm thành lập học viện quân sự danh giá nhất nước Mỹ. Ba năm sau, ông xây dựng quy mô West Point lớn gấp ba lần và hiện đại hóa hoàn toàn chương trình học.

Trước Thế chiến I, MacArthur từng tham chiến ở Philippines và sau đó, ông cũng quay lại chiến trường này trong vai trò chỉ huy. Ông có mối quan hệ rất tốt với Manuel Quezon, một chính khách hàng đầu trên đảo Philippines. MacArthur cũng từng cảnh báo về nguy cơ của chủ nghĩa phát xít lan rộng, tuy nhiên nước Mỹ lúc đó quá tập trung giải quyết hậu quả cuộc Đại suy thoái.

Năm 1930, ông được phong làm tướng 4 sao và tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở Thế chiến I. Do Mỹ suy yếu về kinh tế nên nhiệm vụ của ông lúc đó thêm khó khăn. Sau khi nhận thấy hình ảnh và tầm ảnh hưởng của mình bị suy yếu nghiêm trọng trong Thế chiến I, ông xin từ chức năm 1937. Trước đó, ông được Manuel Quezon phong làm thống chế của quân đội Philippines. 4 năm sau, ông lại được gọi vào quân ngũ và chuẩn bị Thế chiến II.

Thế chiến II

img

Tướng MacArthur quay trở lại Philippines năm 1944.

Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt giao cho MacArthur là chỉ huy tất cả lực lượng quân đội Mỹ ở vùng Viễn Đông vào tháng 7.1941. Khi Philippines chuẩn bị có nền độc lập thực sự, MacArthur nhận ra sức mạnh của đế quốc Nhật ở Thái Bình Dương đang lớn lên từng ngày.

Dù được tướng Dwight Eisenhower hỗ trợ từ Washington nhưng MacArthur không nắm trong tay thực quyền để xây dựng một đội ngũ đủ mạnh nhằm kiểm soát quân Nhật. Sự kiện Trân Châu Cảng tháng 12.1941 là cú đấm trực tiếp vào lực lượng quân đội MacArthur ở Philippines. Không quân, hải quân Mỹ tại đây bị nghiền nát và tới tháng 1 năm sau, tàn quân của người Mỹ phải chuyển tới đảo Bataan gần đó.

Tháng 3.1942, Tổng thống Roosevelt giao chức vụ tổng chỉ huy quân Đồng minh ở khu vực tây nam Thái Bình Dương cho MacArthur. Sau đó, ông bị điều chuyển tới Australia. Ngay trong đêm nhận nhiệm vụ mới, một tàu ngư lôi Mỹ chở gia đình MacArthur tới miền nam Philippines. Họ bay tới Australia từ đây. Tại một đất nước xa lạ ở châu Úc, MacArthur nói một câu nổi tiếng: “Nhất định tôi sẽ quay trở lại”. Ba năm sau, MacArthur thực hiện được lời hứa của mình.

Giành lợi thế ở Thái Bình Dương

img

Tướng MacArthur được phong làm thống chế hai quân đội Mỹ-Philippines.

MacArthur dành chủ yếu năm 1942 để xây dựng lực lượng và binh lực. Cuối năm đó, ông chỉ huy các đợt tập kích đầu tiên nhằm vào Nhật Bản. Đầu năm 1944, quân đội Đồng minh do ông chỉ huy đã làm chủ các quốc gia như New Guinea, New Britain, Solomon và đảo Admiralty. Cuối năm đó, quân Mỹ chiếm nốt đảo Leyte ở Philippines, được các sử gia xem là trận hải chiến lớn nhất lịch sử, trải dài trên một diện tích 260.000 km2.

Trận chiến giữa Mỹ và Nhật khiến kết thúc, hải quân Nhật thiệt hại nặng nề, tổn thất 3 thiết giáp hạm (bao gồm tàu thiết giáp Musashi), 4 tàu sân bay, 10 tàu tuần dương và 9 tàu khu trục. Tổng cộng 300.000 tấn sắt thép chìm xuống biển. Hải quân Mỹ chỉ thiệt hại tương đương 37.000 tấn, bao gồm 1 tàu sân bay hạng nhẹ và 2 tàu sân bay hộ tống cùng một vài tàu chiến khác.

MacArthur sau đó đã đi dạo trên hòn đảo này cùng binh sĩ của mình, qua đó thực hiện lời hứa quay trở lại chiến trường Philippines. Nửa năm tiếp theo, Philippines chính thức được giải phóng.

img

Trận hải chiến đảo Leyte lớn nhất lịch sử thế giới.

Tháng 12.1944, ông được phong làm tướng 5 sao và tới tháng 4.1945 là tổng chỉ huy tất cả lực lượng quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương. Bốn tháng sau, ông được Tổng thống Harry Truman thăng cấp lên chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh. Cũng với nhiệm vụ mới, ông là người tiếp nhận sự đầu hàng của phát xít Nhật và cai quản đất nước này.

MacArthur mở căn cứ ở Tokyo và trở thành người chỉ huy duy nhất ở Nhật Bản. Ông nhận được sự coi trọng của dân Nhật vì cách hành xử cương quyết nhưng công bằng. MacArthur cũng đưa ra một tiến trình chuyển giao để nước Nhật trở thành một quốc gia dân chủ.

Về nhà

img

MacArthur trong bài phát biểu quan trọng khi về nước năm 1950.

Khi trở về Mỹ, ông đọc bài diễn văn giã từ sự nghiệp quân sự của mình: “Tôi sẽ khép lại đời binh nghiệp 52 năm qua. Khi tham gia quân ngũ, tôi đã hoàn thành giấc mơ từ nhỏ của mình. Thế giới đã thay đổi quá nhiều khi tôi tuyên thệ ở West Point. Tôi vẫn nhớ một câu hát rất nổi tiếng trong quân đội: “Người lính già không chết đi, họ chỉ tan vào hư không”. Giờ đây, như người lính của bản hùng ca ấy, tôi xin được kết thúc sự nghiệp của mình”.

Ngày 14.4.1964, MacArthur qua đời ở bệnh viện quân đội Walter Reed, thọ 84 tuổi.

 

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem