Vô số cổ vật trong đền thờ một vị Quận công nhà Nguyễn ở Long An, có bộ ván không ai dám ngồi
Vô số cổ vật quý trong đền thờ một vị Quận công nhà Nguyễn ở Long An, có bộ ván không ai dám ngồi
Bài: Phan Mộng Tuyền. Ảnh: Văn Ngọc Bích (Cổng TTĐT Sở VHTT DL Long An)
Thứ bảy, ngày 17/06/2023 05:05 AM (GMT+7)
Lăng mộ cổ và Đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức tọa lạc tại phường Khánh Hậu, thành phố Tân An (tỉnh Long An) được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật (năm 1993) và tại đây hiện đang lưu giữ nhiều cổ vật quý có niên đại hơn 200 năm.
Nguyễn Huỳnh Đức tên thật là Huỳnh Tường Đức, sinh năm 1748 tại Giồng Cái Én, làng Tường Khánh, nay là phường Khánh Hậu, thành phố Tân An, tỉnh Long An.
Nguyễn Huỳnh Đức xuất thân trong một gia đình võ tướng đã 3 đời nên ông sớm có tài võ lược và được người đương thời gọi là "Hổ tướng".
Năm 1780, ông theo phò Nguyễn Ánh, lập nên nhiều chiến công và trở thành Khai quốc công thần của triều Nguyễn. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Khâm sai Chưởng Hữu Bình Tây tướng quân, trấn giữ Diên Khánh (năm 1796); Tổng trấn Bắc thành (năm 1810); Khâm sai Chưởng tiền quân (năm 1812); Tổng trấn Gia Định thành (năm 1815)…
Đến ngày 09 tháng 9 năm Kỹ Mão (1819) ông qua đời, hưởng thọ 72 tuổi. Hay tin ông mất, vua Gia Long mến tiếc vô cùng, ban cho vàng bạc, tơ lụa cử hành lễ tang trọng thể.
Ngày 16 tháng 10 năm 1819, vua Gia Long truy tặng ông: "Thôi trung Dực vận công thần, đắc tấn phục quốc, Thái phó Đức Quận công, Thượng tướng quân Thượng trụ quốc".
Năm 1820, ông được vua Minh Mạng phong tặng: "Thái phó Đức Quận công, hàm ân trung nghị". Năm 1831, vua Minh Mạng sắc phong: " Kiến Xương Quận công".
Hai năm trước khi mất, tức năm 1817, ông đã cho xây trước mộ phần ở quê nhà. Lăng mộ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức là một công trình kiến trúc cổ của Long An còn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Với chất liệu đá ong và vữa tam hợp, di tích chịu ảnh hưởng bởi phong cách, kiểu dáng kiến trúc thời Nguyễn nhưng vẫn mang bản sắc địa phương và đã trở thành điển hình cho lối kiến trúc lăng mộ của tầng lớp quan lại đầu thế kỷ XIX.
Đặc biệt, bên trong đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức còn lưu giữ, trưng bày nhiều cổ vật quý với nhiều chất liệu (kim loại, gỗ, giấy) có giá trị về lịch sử - văn hóa - nghệ thuật, là nguồn tư liệu quý hiếm phục vụ công tác tham quan và nghiên cứu khoa học thời kỳ cận đại.
NHÓM CỔ VẬT CHẤT LIỆU GỖ
Trong số những cổ vật chất liệu gỗ đặc biệt phải kể đến bộ ván một.
Bộ ván dài 3,4m, rộng 1,8m, dày 0,14m, được làm từ một khối gỗ lớn từ gõ mật, có niên đại trên dưới 250 năm. Lúc sinh tiền, Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức thường nghỉ ngơi trên bộ ván này. Bộ ván này là vật chứng của gia tộc Nguyễn Huỳnh trong công cuộc khẩn hoang và định cư ở đất Ba Giồng và được gia đình bảo quản tốt từ ấy đến nay.
Theo lời kể của gia tộc Nguyễn Huỳnh, bộ ván một này là di vật của Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, được ông sử dụng hồi còn ở quê nhà, lúc chưa đi theo phò Chúa Nguyễn. Từ đó suy ra, bộ ván này có niên đại muộn nhất cũng vào năm 1780.
Từ khi Quận công Nguyễn Huỳnh Đức mất (mùng 9 tháng 9 năm 1819 ÂL) đến nay bộ ván được đặt một cách trân trọng tại chính điện đền thờ ngài. Tương truyền, đây là bộ ván linh thiêng, nếu ai có lòng tà dại, gian tham dám ngồi lên bộ ván thì thế nào cũng bị Quận công Nguyễn Huỳnh Đức quở phạt.
Cụ Nguyễn Huỳnh Tân (1878-1954) là cháu đời thứ năm của Quận công Nguyễn Huỳnh Đức có truyền lại cho con cháu một mẩu chuyện thú vị xung quanh bộ ván một như sau:
Vào khoảng năm 1880, khi Quận công Nguyễn Huỳnh Đức đã mất hơn 60 năm, tại khu vực giáp ranh hai tỉnh Long An và Tiền Giang bây giờ có cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp do ông Ong và ông Khả lãnh đạo.
Lúc bấy giờ, tên việt gian Trần Bá Lộc đang trấn nhậm vùng Cái Bè đã đem quân đến đàn áp cuộc khởi nghĩa theo lệnh của Tây. Một hôm hắn dẫn lính vào lùng sục, tra khảo nhân dân làng Tường Khánh. Khi đi ngang đền thờ Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, Trần Bá Lộc rẽ vào và leo lên bộ ván ngồi một cách nghinh ngang.
Giữa lúc con cháu Quận công Nguyễn Huỳnh Đức đang lạy chào "quan" thì Trần Bá Lộc đột nhiên té nhào từ trên bộ ván xuống. Lính hầu lật đật khiêng Trần Bá Lộc lên giường nằm.
Một lúc sau Trần Bá Lộc tỉnh lại, nét mặt hốt hoảng kể lại rằng: "Ta đương ngồi trên bộ ván thình lình có một bọn năm sáu người tự xưng là bộ hạ của Quan Thượng Tiền quân vâng lệnh ngài đến bắt ta đem chém. Ta vùng vẩy, chống cự lại bọn lính hầu nên mới bị té xuống đất". Ngừng một chút, Trần Bá Lộc nói tiếp: "
Mấy chục năm nay ta đánh Nam dẹp Bắc, giết người như chém cỏ, từng đốn tre kẹp con nít, bỏ người vào cối quết chẳng gớm tay. Hôm nay là lần đầu tiên ta phải kiêng sợ bộ ván linh của quan Thượng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức vậy."
Từ đó về sau, không một ai dám ngồi lên "Bộ ván linh" của Quận Công Nguyễn Huỳnh Đức.
Bộ ván một đang được đặt tại tiền điện đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, tại phường Khánh Hậu, thành phố Tân An (tỉnh Long An).
Mui võng
Mui võng là di vật của Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, đã có trên 200 năm tuổi. Mui võng này gồm có 2 phần là sườn gỗ và mái che. Sườn gỗ gồm 2 thanh gỗ dài 4m, hai đầu chạm rồng, được nối với nhau bằng 2 mảnh gỗ thếp vàng, chạm hoa văn mặt trời và mây.
Mái che có hình bầu dục, đan bằng tre chẻ đều, thật mảnh, phía trên có phủ một lớp giấy và sơn dầu. Do được làm từ chất liệu mang tính bền vững không cao (tre đan) cùng sự khắc nghiệt của thời gian nên hiện nay phần mái che đã hư hỏng nặng. Dù vậy, với phần còn lại chúng ta dễ dàng nhận thấy kỹ thuật đan lúc bấy giờ đã đạt đến trình độ cao thể hiện ở sự tinh xảo của sản phẩm.
Võng là một phương tiện di chuyển của quan lại thời phong kiến triều Nguyễn (1802-1945). Quan lại không được phép dùng kiệu mà chỉ dùng võng có mui che được khiêng bởi 4 người lính. Đòn ngang của võng được sơn son thếp vàng, khắc hình con giao long.
Đòn dọc khắc hình con thú ứng với phẩm trật của vị quan ngồi trên võng. Mui che võng được sơn quang dầu để che mưa nắng. Quan nhất phẩm có 4 lính, vác 4 lọng theo hầu, quan nhị phẩm có 2 lính vác lọng, còn quan từ tam phẩm đến tứ phẩm chí có 1 người vác lọng.
Mui võng này là một phần của chiếc võng, cho đến đầu thế kỷ XX, chiếc võng này vẫn còn nguyên vẹn. Đến năm Giáp Thìn (1904), một cơn bão lớn đã làm sập nhà thờ, làm hỏng chiếc võng, chỉ còn lại phần mui như hiện nay.
Mui võng (một bộ phận chiếc võng) – di vật của Kiến Xương quận công Nguyễn Huỳnh Đức tại phường Khánh Hậu, thành phố Tân An (tỉnh Long An).
Ngai thờ
Thêm một cổ vật tại Đền thờ được làm từ chất liệu gỗ là ngai thờ. Hiện vật này cao 1m, dài 0,7m, rộng 0,4m, là phẩm vật của Phật vương nước Xiêm tặng cho Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức. Sinh thời, Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức đã 3 lần sang Xiêm.
Lần thứ nhất vào năm Canh Tuất (1790) ông sang Vọng Các tìm Nguyễn Vương; lần thứ hai vào năm Kỷ Mùi (1799), ông đem quân sang giúp vua Xiêm đánh Miến Điện xâm lược; và lần thứ ba vào năm Tân Dậu (1801), ông sang Xiêm mang quốc thư và lễ vật ngoại giao của Nguyễn Vương.
Phật vương nước Xiêm rất kính phục Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức. Ngai thờ này có thể được vua Xiêm tặng cho Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức ở một trong ba thời điểm nêu trên. Vì thế niên đại của chiếc ngai thờ này muộn nhất cũng đã trên 200 năm. Chiếc ngai thờ này là cổ vật có ý nghĩa lịch sử, văn hóa ghi dấu mối quan hệ bang giao Việt - Xiêm giai đoạn cuối thê kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Hoành phi "Vạn lý danh"
Hoành phi làm bằng gỗ, sơn son, thếp vàng, dài 1m, rộng 60cm. Viền quanh hoành phi là hoa văn chạm nổi họa tiết dây lá và lưỡng long chầu nguyệt. Giữa hoành phi có 3 chữ Hán đại tự thếp vàng Vạn lý danh, bên phải hoành phi có dòng lạc khoản: Giáp Dần niên, trọng xuân (Tháng hai năm Giáp Dần - 1854).
Nội dung hoành phi ca tụng tiếng tăm của Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức bay xa vạn dặm, lấy ý từ câu "Vạn lý chi danh" trong bài Thọ phần minh do vua Gia Long ngự ban ở mộ phần Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức.
Hoành phi Vạn lý danh
Những cổ vật trên gắn liền với cuộc sống sinh hoạt đời thường của Quận công, từ khi còn trai trẻ đến lúc gia nhập đội quân Đông Sơn, trở thành Khai quốc công thần triều Nguyễn và cả khi ông mất đi. Chúng không chỉ có giá trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật mà còn chứa đựng yếu tố tâm linh, thể hiện sự tôn kính của người dân địa phương đối với vị quan luôn lấy chữ trung làm đầu như câu "trung thần bất sự nhị quân"- tôi trung không thờ hai chúa.
Bên cạnh những cổ vật gỗ thì cổ vật chất loại kim loại là một điểm nhấn thú vị tại Lăng mộ và đền thờ Kiến xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức.
CỔ VẬT CHẤT LIỆU KIM LOẠI
Khánh
Chiếc khánh có chất liệu bằng đồng thau, nặng 40 kg, được đúc vào năm 1819 – cùng năm Quận công Nguyễn Huỳnh Đức mất. Trên khánh có hoa văn mặt trời, mây và chùm sao Bắc Đẩu. Bên phải khánh có dòng chữ Hán: "Kỹ Mão niên, thất nguyệt, cát nhật, lương thần chú tạo" (đúc vào ngày, giờ tốt, tháng bảy, năm Kỷ Mão). Cổ vật này được đánh cùng với đại cổ (trống lớn) mỗi khi cử hành đại lễ húy kỵ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức.
Ấn đồng
Năm Tự Đức thứ 4 (1851), vào ngày mùng 4 tháng 8, vua Tự Đức sắc phong cho Nguyễn Huỳnh Kim, cháu nội Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức chức Cai đội, trật Chánh ngũ phẩm, tước Kiến Xương tử, giữ việc thờ cúng Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức.
Ấn đồng này được vua ban cho Nguyễn Huỳnh Kim cùng với sắc phong. Ấn cao 9cm, chuôi hình trụ tròn, mặt ấn hình vuông 4 x 4cm, có khắc 5 chữ triện: "Kiến Xương tử giám thủ". Phía trên ấn có 2 dòng chữ: Tự Đức tứ niên, kiết nguyệt nhật tạo (Đúc vào ngày, tháng tốt năm Tự Đức thứ 4-1851) và Trọng nhất cân, tam lượng (nặng 1 cân, 3 lượng-khoảng 700gr).
Ấn đồng được đúc năm 1851
Hai cổ vật này được gia tộc Nguyễn Huỳnh bảo quản tốt nên vẫn còn nguyên vẹn, các họa tiết hoa văn, đường nét sắc xảo, thể hiện kỹ thuật đúc đồng đã ở trình độ cao.
CỔ VẬT CHẤT LIỆU GIẤY
Có thể nói trong số các cổ vật quý tại đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức thì cổ vật chất liệu giấy chiếm số lượng lớn. Đó là các sắc phong, chiếu, chế, chỉ và cả tranh vẽ - nguồn tư liệu hết sức quý báo cho công tác nghiên cứu khoa học.
Tranh chân dung Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức
Bức tranh cao 1,7m, rộng 0,7m vẽ bằng mực tàu trên giấy dó theo cách vẽ truyền thần. Trong bức tranh, Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức mặc phẩm phục võ tướng, mang gươm, trong tư thế ngồi. Căn cứ dòng chữ "Gia Long hoàng đế, nguyên phụng trấn Quy Nhơn thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Quận công ngũ thập ngũ chơn tượng", ta biết được bức tranh này được vẽ năm 1802, lúc Quận công Nguyễn Huỳnh Đức 55 tuổi, đang làm Trấn thủ thành Quy Nhơn.
Qua bức tranh, hậu thế có thể chiêm ngưỡng được dung mạo và phong độ của vị hổ tướng đất Ba Giồng lừng lẫy một thời. Bức tranh cũng cung cấp thêm những tư liệu quý về phẩm phục của một võ quan nhất phẩm đầu đời Nguyễn.
Dẫu đã trải qua hơn 200 năm nhưng bức tranh trên vẫn còn nguyên vẹn, màu mực có thể không còn đậm nguyên như lúc ban đầu nhưng đây là là một tài liệu quý giúp chúng ta có thể tham khảo về nghệ thuật vẽ tranh truyền thần đầu thế kỷ XIX .
Tranh chân dung Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức
Chỉ sai Nguyễn Huỳnh Đức đem quân giúp nước Xiêm chống lại sự xâm lăng của Miến Điện của vua Gia Long ngày mùng hai tháng hai năm Cảnh Hưng thứ 59 (1799).
Chỉ, chất liệu giấy, đã hư hỏng phần lớn, đề ngày 20 tháng 12 năm Cảnh Hưng thứ 62 (1801). Theo gia tộc Nguyễn Huỳnh, đây là chỉ sai Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức mang phẩm vật ngoại giao sang Xiêm để tranh thủ sự ủng hộ của nước này trong cuộc quyết chiến cuối cùng với Tây Sơn.
Sắc phong quan tước cho Nguyễn Huỳnh Đức ngày mùng một, tháng năm, năm Gia Long Nguyên niên (1802). Sắc bằng giấy dó màu bạc, in rồng chìm, dài 1,35m, rộng 0,50m.
Sắc phong năm 1802
Sắc vua Gia Long truy phong cho ông Huỳnh Công Châu, tổ phụ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức ngày mùng một, tháng chín, năm Gia Long thứ ba (1804 ). Sắc bằng lụa vàng, thêu rồng, dài 0,75m, rộng 0,40m.
Sắc phong năm 1804 đã bị hư hại nhiều
Chế vua Minh Mạng truy tặng chức hàm cho Nguyễn Huỳnh Đức ngày 11 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 12 (1831) được làm bằng tơ vàng, thêu rồng, dài 1,5m, rộng 0,5m.
Sắc vua Minh Mạng ban cấp tự điền cho Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức ngày 15 tháng 11 năm Minh Mạng thứ 5 (1824). Sắc bằng giấy vàng, in rồng chìm, dài 1,5m, rộng 0,5m.
Chiếu vua Minh Mạng phong chức tước cho Nguyễn Huỳnh Thành (thứ nam Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức) ngày 22 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 10 (1829).
Chiếu vua Minh Mạng gia phong quan tước cho Vệ úy Thành Tín hầu Nguyễn Huỳnh Thành nhân lễ Tứ tuần đại khánh ngày 4 tháng 6 năm Minh Mạng thứ 11 ( 1830).
Chế của vua Tự Đức tập phong cho Nguyễn Huỳnh Kim (cháu nội Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức) ngày 2 tháng 8 năm Tự Đức thứ 3 (1851). Chế bằng lụa trắng thêu rồng vàng, dài 1,3m, rộng 0,3m.
Với sự đa dạng về chất liệu, phong phú về số lượng và có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật… những cổ vật tại Lăng mộ và đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức là tài sản quý báu của dân tộc nói chung của nhân dân Long An nói riêng.
Bởi thế những cổ vật trên xứng đáng được quan tâm, đầu tư hơn nữa trong công tác bảo quản chống xuống cấp nhất là khi có những cổ vật tuổi đời đã trên 200 năm. Không cổ vật nào có thể trường tồn với thời gian nhưng nếu chúng ta gìn giữ, chăm sóc và bảo quản tốt vốn quý của ông cha để lại chính là góp phần quan trọng vào việc giữ gìn lịch sử, vốn liếng văn hóa của dân tộc cũng là làm tròn trách nhiệm với thế hệ con cháu mai sau.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.