Vùng Thất Sơn và chuyện "thót tim" vì khỉ thời chiến tranh

Theo Trần Bảo Định/ Tạp chí sông Hương Thứ năm, ngày 18/02/2016 10:00 AM (GMT+7)
Hồi chiến tranh, đơn vị tôi đóng ở vùng Thất Sơn. Tiếng là, đóng ở vùng Thất Sơn nhưng thiệt ra, đơn vị luôn di chuyển nhằm đánh lừa địch, giấu tung tích và bảo toàn lực lượng.
Bình luận 0

Có thể rạng sáng đơn vị ăn cơm sớm, đề phòng “chống càn”. Trời chạng vạng, đơn vị đã đứng chân ở phía Tây Tri Tôn. Người lính ở hai phía đối nghịch, đều cực sơn trường, sống chết và phiêu bạt như nhau. Nói cho cùng, chất chiến binh mỗi con người không thể khác.

img

Núi Cô Tô (còn gọi là Phụng Hoàng Sơn) trong vùng Thất Sơn nhìn từ xa (ảnh: Phúc Lộc)

Nhớ cái Tết năm 71, đồng bào tổ chức cho đơn vị đón Xuân và ăn Tết ở núi Bà Đội Ôm. Chiều cuối năm, gió núi Két chở nắng Nhà Bàng qua cánh đồng biên vực Tri Tôn, làm ấm lòng những đứa con của miệt ruộng, miệt vườn... vì tình quê đã ly nông cầm súng, ra đi không hẹn ngày về. Tôi ngồi uống rượu cùng cụ Lão Sơn, tuổi áng chừng cũng đã vượt qua hàng "thất thập".

Tôi phải nói như vậy, vì cụ chưa bao giờ tính tuổi mình mà, muốn tính chả biết sao tính; bởi cụ mù chữ, vùng nầy từ thuở tạo thiên lập địa không có lịch, chỉ là quanh quẩn ngày đêm, sáng tối. Màu trời chiều ráng vàng và ửng hồng lên những tia nắng hấp hối, cụ nhấm nháp rượu rất chậm như tiếc và nuối tích tắc thời gian năm cũ. Hình như, có một cái gì đó trải vào lòng tôi buồn buồn... bàng bạc khói sương, không rõ lắm! Bất chợt, tôi nhớ nhà!

Tôi cầm ly rượu, xin phép và mời cụ. Chẳng đợi cụ cho phép, tôi ực một phát nhanh hơn đầu đạn rời nòng súng, rồi khà một tiếng giấu tâm trạng riêng mình. Tôi đánh trống lảng, hỏi cụ:

- Thưa cụ, quê mình sao gọi núi Bà Đội Ôm?

Cụ khất lại cái khăn quấn đầu, vấn thuốc rê Gò Vấp:

- Cái năm nẳm, qua nghe nội qua kể: Vào buổi sơ khai, người chồng lên núi “phá sơn lâm” khẩn đất. Vợ đội gạo lên núi cho chồng. Đến nơi, vợ không gặp chồng, nàng đội gạo đứng chờ chồng mỏi mòn và hóa đá. Dân quanh vùng từ đó, gọi núi Bà Đội Ôm!

Cụ rít một hơi thuốc thiệt sâu, khói bay theo thời khắc chờ đợi đón giao thừa và chuẩn bị giờ khởi đầu hưu chiến của cả hai phía. Cụ tự rót thêm rượu vào ly.

- Qua thuộc dân “đàng cựu”, dẫu rằng dốt chữ nhưng, cũng biết đôi chuyện kỳ bí ẩn chứa tín ngưỡng tâm linh được lưu truyền từ buổi lưu dân lập ấp ở miền biên địa Thất Sơn nầy!

Đôi mắt cụ vụt sáng lên.

- Năm non bảy núi ở đây, có gần 40 ngọn núi lấy tên đá đặt tên mình. Cậu biết tại sao không? Tại vì, đá chất chồng lên nhau tạo thành núi; núi chẳng thể tạo ra đá. Núi chớ dại dột quay lưng hoặc phản bội đá; nếu chuyện đó xảy ra, núi sẽ không là núi. Một khi đá bị khai thác và người lấy đá đi thì, núi tự biến mất trên mặt đất. Lẽ đương nhiên của trời đất.

Rồi, như một vị tướng quân, cụ ra lệnh:

- Qua để ý từ lúc trưa bộ đội về đóng quân, ngó cách đào lò nấu cơm, giặt giũ, phơi phóng... là qua biết ngay, mấy cậu thuộc dân miệt vườn, chớ chẳng dân tại chỗ.

- Dạ, thưa cụ! Tụi cháu ở miệt Vĩnh Long, Sa Đéc, mới tham gia chiến trường nầy lần đầu. Có gì, xin cụ chỉ vẽ đường đi nước bước.

Đợi tôi nói xong, cụ cười:

- Qua mách nước giúp cậu hai việc rất đơn giản mà hệ trọng: Một là, ngày mai nên chuyển quân vào lòng núi Cấm cho an toàn. Núi có thể sạt lở do bom. Đá thì không! Bom chẳng nhằm nhò đối với, nên người đời thường bảo “trơ trơ như đá...”.

Cụ sợ tôi hiểu lầm, cụ nói rằng: Chẳng phải bà con ngại tốn cơm gạo bộ đội mà, nếu đóng quân như vầy sẽ ăn pháo từ Quân trường Chi Lăng, Nhà Bàng, Tri Tôn... Đơn vị cậu chắc chắn hứng chịu sự tổn thất khó lường. Chưa nói máy bay từ Cần Thơ, chưa nói thỉnh thoảng và bất chợt pháo đài B52... Tôi nghe mà rợn xương sống.

img

Đồi Tức Dụp, Khu du lịch nổi tiếng nằm trong dãy núi Cô Tô (ảnh: Phúc Lộc)

Cụ tằng hắng lấy hơi:

- Hai là, bọn khỉ.

Tôi quá đổi ngạc nhiên, vội hỏi lại:

- Thưa cụ, cụ nói cái gì, cụ?

Giọng nói của cụ đậm đặc và cộc lốc:

- Khỉ!

Cụ nói chưa dứt tiếng, ngoài bìa núi ồn ào và có tiếng la í ới của anh em đơn vị. Tôi phản xạ theo thói quen của người lính, nhỏm đít vụt đứng dậy, chạy một mạch đến điểm có những tiếng la hét. Một cảnh hãi hùng, bầy khỉ từ đỉnh núi lẻn xuống nơi đóng quân trộm ba lô bộ đội; trong đó, con khỉ đầu đàn trộm khẩu AK 47 báng xếp của đồng chí Trung đội trưởng Trung đội 2. Chúng máng tòn teng ba lô trên những cành cây dầu cao trật ót. Con khỉ đầu đàn ngồi vắt võng ở chãng ba cây sao cổ thụ, tay cầm khẩu AK 47 xăm xoi, nghía tới nghía lui ra chiều thích thú.

Tôi bị bất ngờ ở tình huống tao ngộ vượt ngoài trí tưởng. Tôi đâm lo, vì thường bộ đội di chuyển đội hình hành quân, đạn sẵn sàng lên nòng trong tư thế chiến đấu và súng chỉ khóa an toàn. Khẩu AK 47 chắc không ngoại lệ của lập trình đó. Con khỉ chỉ cần tháy máy tay chân làm bật khóa an toàn súng thì, chuyện thương vong cho đơn vị, cho cô bác ở cái xóm nghèo nầy sẽ xảy ra khôn lường. Tôi đắn đo suy nghĩ, định hội ý chớp nhoáng với anh em để tìm cách thu hồi khẩu AK 47. Một bàn tay khô đét đập vai, tôi giật mình xoay mặt lại. Thì ra, Cụ!

img

(Ảnh minh họa, nguồn Internet)

- Trở vô uống rượu tiếp, cậu bộ đội!

Trời đất, tình hình nầy còn tâm trí, lòng dạ nào mà uống rượu. Tôi dợm nói lời từ chối, như hiểu ý, cụ bạnh cái miệng không còn răng thành móm ra cười.

- Cậu cho mọi người vô hết trong nhà. Nhanh lên! Bầy khỉ một khi nó đạt được sự thỏa mãn của thỏa mãn thì, nó sẽ biến ngay; nhất là, nó đánh hơi thấy người lạ...

Tôi còn ngần ngừ, chưa dứt khoát. Cụ nói như đinh đóng cột:

- Để qua kêu bầy khỉ trả đồ đạc, súng ống lại cho!

Trời về khuya, sương mù núi mù rừng.

Tôi ngồi uống trà với cụ, sau giờ đón giao thừa, mừng năm mới. Pháo Tết nổ thưa dần... đì đẹt đâu đó mấy tiếng lạc âm như chim lạc đàn. Sớm mai, mồng một tết, tôi dời quân vào lòng núi Cấm... Đời chiến binh, thân gửi sa trường, người xưa chắc vẫn thế, và mấy ai tin mình còn sống trở về? Bất giác bài thơ Lương Châu Từ của Vương Hàn, hơn nghìn năm trước lại hiện trong tâm trí tôi: “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?”

Lúc chiều, nếu không có cụ phá vây “cứu một bàn thua trông thấy” thì, đơn vị đến đứng chân chiến trường mới chưa kịp đánh đấm đã bị bầy khỉ “chào sân” đổ máu mắt. Tôi nhớ, cổ nhân dạy: “Tiền hung hậu kiết thế gian vô”; nghĩa là, trước gặp điều rủi, sau gặp điều may, thế gian chẳng có. Trong trường hợp nầy, có lẽ cổ nhân sai! Dẫu biết, sớm mai tôi xa cụ nhưng, thiệt tình bụng dạ tôi chưa đành. Cụ hỏi tôi, cái gì mần bụng dạ tôi chưa đành? Tôi nói tôi thắc mắc, chưa thông việc cụ bưng thúng trái thị ra sân, rồi hú bầy khỉ xuống sân trả súng, trả ba lô... đổi thúng trái thị. Việc khó có thể có mà, lại có! Như cụ biết, con người ta, một khi đầu óc chưa thông thì, dẫu mang cái bi đông cũng nặng; thông rồi, có thể dời núi lấp sông.

Tiếng rừng gáy theo tiếng gà nhà cuối xóm, hơi sương thấm lạnh qua ngọn đèn chong leo lét trên cái bàn thiên giữa sân. Thêm lửa cho nồi nước mau sôi, cụ nói chậm rãi:

- Dòng họ qua, vốn sống bằng nghề tiều phu đã mấy đời nên, chuyện khỉ với qua khác chi hàng xóm. Thấy nhau, gần nhau, chia sớt ngọt bùi từ miếng ăn đến cái uống... giữa chốn núi rừng hoang vắng, người và thú nẩy sinh sự cảm thông, tin cậy và thân thiện. Chẳng phải ngẫu nhiên mà, ông bà mình dặn: “Nhứt cận lân, nhì cận thân”. Đừng dại dột châm bẩm hiểu “cận lân” là người cận lân với người, bỏ quên “cận lân” với thú! Bầy khỉ là “cận lân” với qua. Có “cận” mới có “lân”, có “lân” thì chuyện chi chẳng hiểu chẳng giúp? Kiểu “tối lửa, tắt đèn có nhau”.

Tôi như lạc vào thế giới khác, đầu óc được mở ra. Tôi nghĩ vội: Đất nước dù còn bom đạn, dân đói nghèo lưu lạc nhưng, dân tộc nầy có những con người như cụ, lo gì không chống được ngoại xâm, lo chi không chung tay dựng xây đất nước...

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem