Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Xếp hạng của Statista vào năm 2021 cho thấy Walmart là nhà bán lẻ lớn nhất thế giới tính theo doanh thu. Trong năm 2021, Walmart thu về ước tính 572,75 tỷ USD, bỏ xa rất nhiều so với Amazon ở vị trí thứ 2 với 239,15 tỷ USD. Theo tính toán của Companiesmarketcap, giá trị vốn hóa thị trường của Walmart ước tính khoảng 442,81 tỷ USD, đứng thứ 15 trên thế giới.
Walmart có tổng số khoảng 10.623 siêu thị bán lẻ trên khắp thế giới tính đến ngày 31/3/2023. Ngoài ra, công ty có 380 trung tâm phân phối hàng hóa. Như vậy tính chung Walmart vận hành 11.003 cửa hàng. Trong năm 2021, số lượng siêu thị bán lẻ của Walmart giảm bởi trong quý đầu tiên của năm tài khóa 2022, công ty ngừng hoạt động tại Anh và Nhật.
Walmart có tên cũ là Wal-Mart Stores - một trong những thương hiệu bán lẻ nổi tiếng và được định giá cao nhất thế giới. Walmart khởi đầu ở Mỹ là một cửa hàng bán đồ hạ giá, mô hình bán nhiều hàng hóa ở mức giá rẻ hơn. Giờ đây, Walmart có nhiều loại hình cửa hàng bán lẻ khác nhau, cửa hàng bán hàng hạ giá, trung tâm siêu thị. Công ty đa quốc gia này giờ đây đã trở thành nhà bán lẻ lớn nhất thế giới.
Chuỗi siêu thị Walmart cung cấp đa dạng chủng loại mặt hàng, từ rau quả, sản phẩm may mặc, nội thất, thiết bị gia dụng và hàng điện tử. Công ty vận hành với ba bộ phận khác nhau: Walmart Mỹ, Walmart toàn cầu và chuỗi siêu thị chuyên kho và bán buôn Sam's Club.
Bộ phận mang lại nhiều doanh thu nhất của Walmart chính là Walmart Mỹ chuyên vận hành siêu thị bán lẻ tại nước này. Bộ phận này vận hành trang web thương mại điện tử walmart.com. Bộ phận Walmart toàn cầu và Sam's Club vận hành và mang lại doanh thu thông qua hoạt động bán lẻ, bán buôn, bán thẻ thành viên và bán hàng trực tuyến. Trong năm tài khóa 2022, ước tính khoảng 17% doanh thu của Walmart đến từ bộ phận Walmart toàn cầu.
Ông Sam Walton xây dựng Wal-Mart dựa trên những triết lý cung cấp dịch vụ hoàn hảo và luôn cung cấp giá cả thấp nhất. Từ khi sáng lập Wal-Mart cho đến ngày nay, Walmart vẫn duy trì triết lý: tôn trọng cá nhân, cung cấp dịch vụ cho khách hàng và cố gắng vươn đến sự hoàn hảo.
Walmart không chỉ là nhà bán lẻ lớn nhất thế giới mà giờ đây còn thuộc nhóm doanh nghiệp lớn nhất thế giới. Doanh thu của Walmart cao hơn ba lần so với Carrefour – một nhà bán lẻ khác trong nhóm top đầu của thế giới. Tại nội địa nước Mỹ, Walmart tuyển dụng khoảng 1,2 triệu người lao động và vì vậy là nhà tuyển dụng phi chính phủ lớn nhất tại Mỹ.
Walmart có siêu thị bán lẻ tại tất cả 50 bang của Mỹ, ngoài ra là chuỗi 538 siêu thị bán buôn Sam's Clubs cũng có quy mô đứng thứ 2 tại Mỹ, ngoài ra là 64 cửa hàng nhỏ có tên Neighborhood Markets bán thực phẩm và cả thuốc men.
Walmart bắt đầu ra thị trường nước ngoài từ năm 1991, trong đó có bao gồm cửa hàng bán hàng giảm giá Walmart tại Canada và Puerto Rico; trung tâm đại siêu thị Walmart tại Argentina, Brazil, Trung Quốc, Đức, Mexico, Puerto Rico, Hàn Quốc và Anh; siêu thị bán buôn Sam's Club tại Braxin, Trung Quốc, Mexico và Puerto Rico.
Tại Mexico, Walmart vận hành nhiều cửa hàng giảm giá có tên Bodega, cửa hàng chuyên biệt Suburbias, siêu thị Superamas và nhà hàng Vips.
Ngoài ra, Walmart sở hữu chuỗi siêu thị Todo Dias tại Brazin, siêu thị Neighborhood Markets tại Trung Quốc, cửa hàng rau quả và đồ may mặc ASDA ở Anh cũng như siêu thị Amigo tại Puerto Rico. Walmart đồng thời nắm 26% cổ phần tại siêu thị Seiyu, một doanh nghiệp bán lẻ hàng đầu của Nhật. Tính chung, khoảng hơn 25% các cửa hàng, siêu thị của Walmart ở bên ngoài nước Mỹ. Hoạt động ở nước ngoài đóng góp khoảng 18,5% tổng doanh thu. Con cháu của nhà sáng lập Samuel Walton hiện vẫn sở hữu 38% cổ phần tại doanh nghiệp.
Nhà sáng lập Samuel Walton khi còn sống từng là một trong những người giàu nhất ở Mỹ. Ông tốt nghiệp cử nhân kinh tế đại học Missouri năm 1940 và tham gia vào đội ngũ quản lý tại công ty J.C Penney. Sau 2 năm, ông nhập ngũ.
Ba năm sau, ông xuất ngũ, sử dụng tiền tiết kiệm có được và mở cửa hàng bách hóa Ben Franklin tại Newport, bang Arkansas. Năm 1950, ông bị chủ thuê cắt hợp đồng thuê nhà, ông chuyển đến Bentonville bang Arkansas và tiếp tục mở thêm một cửa hàng khác. Đến cuối thập niên 1950, Sam và anh trai của mình – ông J.L Walton cũng như một số người khác đã là chủ sở hữu của 9 cửa hàng Ben Franklin.
Đầu thập niên 1960, ông Sam Walton bắt đầu quyết liệt xâm nhập vào thị trường bán lẻ khắp nước Mỹ dựa trên những kinh nghiệm kinh doanh chuỗi mà ông đã thu lượm được từ các chuyến đi đến nhiều bang của Mỹ.
Ông quyết định rằng các cộng đồng dân cư nhỏ ở Mỹ cần đến những cửa hàng giá rẻ. Ông trao đổi với các cổ đông của chuỗi Ben Franklin với đề xuất hạ mạnh giá bán theo hướng mà ông đề xuất. Tuy nhiên cổ đông từ chối. Hai anh em nhà Walton đã quyết định tự mở cửa hừng và sau đó khai trương chuỗi cửa hàng giảm giá Wal-Mart tại Rogers, bang Arkansas vào năm 1962.
Hai anh em của ông quyết định mở cửa hàng bách hóa tổng hợp ở các thị trấn có dân số từ 5.000 cho đến 25.000 dân, và nhóm các cửa hàng này thường thu hút sự quan tâm của cộng đồng sống trong bán kính gần đó.
Quan niệm tốt của Walmart có nghĩa là mang đến những cửa hàng quy mô lớn với nhiều loại hàng hóa giảm giá sâu, đây là một phần trong chiến lược "giá thấp mỗi ngày" của hãng. Walton đã có thể giữ giá bán hàng hóa ở ngưỡng thấp thông qua lượng bán lớn cũng như chiến lược tiếp thị đặc biệt.
Chi phí quảng cáo của Walmart luôn thấp chỉ bằng khoảng 30% so với các chuỗi kinh doanh hàng hóa giá thấp khác, phần lớn các đối thủ cạnh tranh chạy khoảng 50 đến 100 chương trình quảng cáo mỗi năm, thế nhưng để giữ được giá bán hàng hóa thấp, Walmart chỉ chạy 12 chương trình quảng cáo/năm.
Đến cuối thập niên 1960, hai anh em nhà Walton đã mở 18 siêu thị Walmart, cùng lúc đó nắm 15 cửa hàng Ben Franklin tại khắp các bang Arkansas, Missouri, Kansas và Oklahoma.
Thập niên 1970 chứng kiến nhiều dấu mốc quan trọng của công ty. Vào đầu thập niên, ông Walton áp dụng chiến lược phân phối nhà kho. Công ty xây dựng nhà kho riêng để có thể mua hàng số lượng lớn và trữ hàng và sau đó xây dựng các siêu thị lớn trong phạm vi gần các nhà kho tổng. Chiến lược này giúp cho Walmart giảm được chi phí và nhờ vậy kiểm soát tốt hơn hoạt động.
Hàng hóa có thể được bù đắp vào các siêu thị trowng thời gian rất nhanh, các chương trình quảng cáo được thiết kế để áp dụng với khu vực phạm vi nhỏ hơn, chi phí quảng cáo vì vậy cũng thấp hơn, chi phí phân phối giảm theo.
Walmart chính thức niêm yết cổ phiếu vào năm 1970, ban đầu giao dịch trên thị trường OTC. Đến năm 1972, cổ phiếu doanh nghiệp này được giao dịch trên sàn New York. Đến năm 1976, anh em nhà Walton chính thức loại bỏ chuỗi cửa hàng Ben Franklin để công ty có thể tập trung mọi nguồn lực vào phát triển chuỗi siêu thị Walmart.
Năm 1977, công ty chính thức thực hiện thương vụ thâu tóm đầu tiên khi mua lại 16 cửa hàng Mohr-Value tại bang Missouri và Illinois. Cũng trong năm 1977, Forbes đã xếp hạng Walmart đứng đầu về tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ suất sinh lời của tài sản trong doanh nghiệp (ROA), tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận.
Năm 1978, Walmart bắt đầu vận hành cửa hàng thuốc, trung tâm dịch vụ cũng như kinh doanh nữ trang và thâu tóm công ty giày Hutchenson. Đến năm 1979, Walmart có siêu thị tại 11 bang. Doanh số bán hàng tăng từ 44 triệu USD vào năm 1970 lên 1,25 tỷ USD vào năm 1979. Walmart trở thành doanh nghiệp cán mốc doanh thu 1 tỷ USD nhanh chưa từng có trước đó.
Doanh thu của Walmart tăng mạnh sang đến thập niên 1980. Năm 1983, công ty mở ba siêu thị Sam's Wholesale Club đầu tiên và bắt đầu mở rộng sang thị trường của các thành phố lớn. Doanh số bán hàng tại các cửa hàng quy mô lớn rất tốt, đến năm 1991, Walmart đã có 148 siêu thị kiểu như vậy, và tên của chuỗi này sau đó được rút gọn xuống còn Sam's Clubs.
Sự kiện quan trọng nhất của năm đó chính là việc Walmart khai trương đại siêu thị Hypermart USA. Đại siêu thị Hypermart USA bao gồm cửa hàng bán rau, cửa hàng bán đồ gia dụng, trung tâm dịch vụ đi kèm ví như nhà hàng, ngân hàng, quầy đánh giày và quầy cho thuê băng đĩa trong không gian rộng tương đương khoảng sáu sân bóng đá.
Giá bán hàng hóa được giảm xuống thấp hơn đến 40% so với giá bán lẻ thông thường, doanh số bán hàng ước tính 1 triệu USD/tuần so với ngưỡng 200.000USD cho cửa hàng giảm giá thông thường.
Việc giúp cho khách hàng cảm thấy như ở nhà trong không gian mua sắm quy mô lớn vậy cần đến sự sáng tạo. Cửa hàng tại Dallas có đường dây nóng lắp đặt tại các lối đi lại để giúp hỗ trợ cho khách hàng. Các tầng của đại siêu thị có bề mặt cao su để thuận tiện cho việc đi lại, cửa hàng đồng thời có giỏ mua hàng điện tử để hỗ trợ cho người tàn tật. Để cho trẻ con có chỗ chơi, siêu thị có khu vực chơi riêng với những quả bóng nhựa, ý tưởng học từ hãng nội thất Ikea của Thụy Điển.
Walmart chịu nhiều chỉ trích về những ảnh hưởng từ hoạt động kinh doanh của Walmart lên các doanh nghiệp nhỏ địa phương. Nhiều chủ sở hữu các cửa hàng kinh doanh độc lập thường phá sản khi Walmart đến đây mở siêu thị bởi không thể cạnh tranh được với Walmart về mức độ tiết kiệm chi phí.
Chuyên gia kinh tế tại đại học Iowa, ông Kenneth Stone, đã từng thực hiện nghiên cứu về hiện tượng này và có chia sẻ với New York Times: "Nếu bạn đến những thị trấn mà Walmart đã tồn tại được từ 8 đến 10 năm, các khu vực trung tâm hoang vắng như những thị trấn ma".
Nghiên cứu của ông cho thấy rằng các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là những doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm, đồ thể thao, quần áo và các sản phẩm dệt may. Trong khi đó, các doanh nghiệp kinh doanh nội thất cũng như thiết bị gia dụng cải thiện được hoạt động kinh doanh bởi lượng khách đến tăng lên.
Tuy nhiên, tại các cộng đồng nơi Walmart xuất hiện, công ty cấp học bổng 1.000USD cho những học sinh phổ thông trong mỗi cộng đồng có Walmart hoạt động
Walmart không ngừng tăng trưởng và đến năm 1992, công ty mở mới 150 siêu thị Walmart và 60 siêu thị bán buôn Sam's Clubs, nâng tổng số siêu thị đang hoạt động lên 1.720 siêu thị và 208 siêu thị bán buôn. Việc mở mới một số cửa hàng cho thấy thay đổi chính sách, định hướng quan trọng của công ty, cụ thể là hoạt động tại các cộng đồng đô thị lớn có dân số đông. Ngoài ra, công ty cũng công bố không làm việc với các đại diện bán hàng độc lập.
Bành trướng ra nước ngoài vào năm 1991
Năm 1991, Walmart vươn ra khỏi nước Mỹ lần đầu tiên. Walmart thành lập liên doanh với hãng bán lẻ Cifra lớn nhất tại Mexico. Liên doanh này thành lập ra chuỗi siêu thị yêu cầu đóng phí làm thẻ thành viên với chi phí 25USD/năm. Người mua hàng sẽ có thể tiếp cận với ước tính khoảng 3.500 mặt hàng, từ áo khoác lông cho đến rau đông lạnh. Chỉ trong vòng một năm, liên quanh này đã mở ra ba siêu thị Club Aurreras, bốn cửa hàng Bodegas và một cửa hàng tổng hợp Aurrera.
Tháng 12/1997, Walmart lần đầu vào thị trường châu Âu thông qua việc thâu tóm chuỗi 21 đại siêu thị Wertkauf tại Đức với số tiền ước tính 880 triệu USD. Mô hình của Wertkauf cũng tương tự với mô hình đại siêu thị của Walmart.
Trong năm tài khóa 1997, lần đầu tiên Walmart công bố các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài có lãi. Đến năm 1998, doanh thu từ thị trường nước ngoài đã đạt 7,5 tỷ USD, một con số ấn tượng bởi xét đến việc Walmart mới chỉ bắt đầu bán hàng ra nước ngoài từ năm 1991, con số này tương đương 6,4% tổng doanh thu.
Kết quả kinh doanh của năm tài khóa 2003 đạt 244,52 tỷ USD doanh thu đã giúp cho Walmart trở thành doanh nghiệp lớn nhất thế giới. Đây là doanh nghiệp phi sản xuất đầu tiên đứng đầu danh sách Fortune 500, công ty được coi như biểu tượng của cả những mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế Mỹ thời kỳ đầu thập niên 2000.
Walmart tìm kiếm nhà cung ứng tại Việt Nam
Theo cùng đoàn Tổng thống Mỹ Joe Biden sang thăm Việt Nam, Walmart đã đến Việt Nam để tìm kiếm nhà cung cấp, sáu lĩnh vực Walmart mong muốn tìm đối tác thông qua chuỗi sự kiện này gồm quần áo và phụ kiện; giày dép; hàng dệt may và phụ kiện; điện tử gia dụng; đồ nội thất; thực phẩm và hàng tiêu dùng.
Lần sang Việt Nam này là đích thân ông Avaneesh Gupta, Phó chủ tịch điều hành Tập đoàn Walmart. Walmart tin tưởng Việt Nam luôn là một nguồn cung ứng quan trọng của họ.
Các làm việc của Walmart với mỗi đối tác là khác nhau. Hiện Walmart đang làm việc ở 19 quốc gia với nhiều đối tác khác nhau. Cách tiếp cận của họ là đầu tư vào khu vực có vị trí địa lý lý tưởng, xây dựng nguồn cung ứng cho các nguyên vật liệu một cách bền vững, duy trì mối quan hệ chiến lược với các nhà cung cấp.
Nếu trở thành đối tác cung ứng của Walmart, tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới này sẽ có các khoản đầu tư với các nhà đầu tư, tận dụng hệ sinh thái tại địa phương, tiếp cận thị trường dựa trên dữ liệu nguồn cung. Tuy nhiên, để trở thành đối tác với Walmart, doanh nghiệp cần tạo ra sự tin tưởng, đảm bảo chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn cao của khách hàng.
Để có thể gia nhập vào chuỗi giá trị trị giá hàng tỷ USD của Walmart trên thị trường quốc tế, doanh nghiệp trong nước cần đặc biệt chú trọng 3 vấn đề cốt lõi, đó là xây dựng chiến lược với mục tiêu dài hạn; giải pháp cho chuỗi cung ứng và logistic; năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm.
Những yếu tố quan trọng nhất khi đánh giá nhà cung cấp tại Việt Nam của Walmart là năng lực, khả năng cung ứng, sự ổn định về tài chính, phát triển bền vững và tuân thủ cam kết về môi trường.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.