5 bộ phim của Trần Anh Hùng được báo Tây khen nức nở

Long Hy Thứ hai, ngày 19/09/2016 07:46 AM (GMT+7)
Trong gia tài chưa đầy 10 bộ phim, đạo diễn Việt kiều gây bất ngờ với các tác phẩm được thế giới trầm trồ.
Bình luận 0

Khi nhắc đến đạo diễn Trần Anh Hùng, người yêu điện ảnh sẽ nhớ ngay đến những tác phẩm chủ đề Việt Nam với phong cách làm phim đương đại.

Vị đạo diễn 54 tuổi cũng được nhắc đến với tư cách chủ nhân của nhiều giải thưởng điện ảnh uy tín thế giới như giải Sư tử vàng, Máy quay vàng của LHP Venice, Giải César, đề cử Oscar...

img

Trong sự nghiệp trải dài hơn hai thập kỷ của mình, đạo diễn Trần Anh Hùng mới chỉ thực hiện 5 phim điện ảnh nhưng các tác phẩm của vị đạo diễn này đều nhận được đánh giá cao từ các đồng nghiệp quốc tế lẫn báo chí thế giới.

 Vĩnh cửu/Eternity (2016)

Tác phẩm mới nhất và gây tranh cãi của Trần Anh Hùng sau 6 năm kể từ Rừng Na- Uy. Đây là bộ phim mang đậm chất Pháp và là phim nói tiếng Pháp đầu tiên của đạo diễn gốc Việt. Dự án phim đã được khởi động từ đầu năm 2014 và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các chuyên trang điện ảnh.

img

Phim vắt qua hai thế kỷ, kể về gia đình của một dòng họ giàu có ở Pháp với những đứa trẻ lần lượt ra đời. Theo đó, cuộc sống gia đình được ghi lại bằng những bức ảnh xinh xắn và những bản nhạc cổ điển hòa cùng với mạch phim.

Bộ phim không có bất cứ tình huống kịch tính nào ngoại trừ những lúc một sinh linh ra đời hay một cuộc đời ngừng lại. Tuy vậy Vĩnh cửu vẫn khá kén người xem bởi đây là một phim nghệ thuật và do đó không được công chiếu rộng rãi.

img

Hollywood Reporter nhận xét Eternity là một “tác phẩm điện ảnh cổ điển, trang nhã, mà không cần phải có một nội dung nào cụ thể”.

Tạp chí này còn so sánh Vĩnh cửu với phim The Tree of Life của đạo diễn người Mỹ Terence Malick, một bộ phim cũng sử dụng nhiều nhạc nền, có giọng thuyết minh dẫn chuyện và cách dựng phim phi tuyến tính thời gian để tạo nên một ấn tượng điện ảnh hơn là một chuyện phim thực sự.

img

Trong 100 dự án phim từng được chờ đợi nhất trong năm 2015 theo bình chọn của chuyên trang điện ảnh Ion Cinema (Mỹ), Eternity xuất hiện ở vị trí thứ 42.

Mùi đu đủ xanh/L'Odeur de la papaye verte​ (1993)

Đây là bộ phim dài đầu tay đầu tiên mà anh từng thực hiện sau hai bộ phim ngắn đầu tay là Người chinh phụ Nam Xương (1989) và Hòn vọng phu (1991).

img

Phim giúp Trần Anh Hùng đã được trao giải Caméra d'Or (Máy quay vàng) cho Quay phim xuất sắc tại LHP Cannes 1993 và Giải César cho Phim đầu tay xuất sắc của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Kỹ thuật Điện ảnh Pháp.

Ngoài ra phim còn nhận đề cử cho giải Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Oscar 66, trở thành bộ phim nói tiếng Việt đầu tiên nhận đề cử Oscar danh giá. Năm 2015, phim lọt vào danh sách "100 bộ phim châu Á hay nhất mọi thời đại" tại LHP Busan và đứng ở vị trí thứ 66.

img

Sau phim công chiếu và nhận được rất nhiều lời khen ngợi về phong cách thực hiện cũng như những cảnh quay rất đẹp về Việt Nam.

Nhà phê bình Hal Hinson từ nhật báo The Washington Post ca ngợi: "Trong Mùi đu đủ xanh, sự tế nhị và khúc bi thương của nhà làm phim người Việt Nam Trần Anh Hùng là dành cho đất nước của anh, thời gian được đếm không phải theo phút hay giờ mà là trong những tiêu chuẩn con người - nhịp tim và những lời khẩn cầu bị bóp nghẹt."

img

Tương tự Hal, cây viết Janet Maslin của tờ The New York Times dành những lời khen ngợi cho phim: "Mùi đu đủ xanh là một bộ phim đẹp thanh bình của Trần Anh Hùng về đất nước Việt Nam đã mất, một nơi có trật tự yên bình khi chưa bị chiến tranh tàn phá... Phim đánh dấu sự xuất hiện của sự hoa mỹ, cái nhìn say đắm của đạo diễn Hùng; phim của anh thường rất yên lặng đầy tính liên tưởng và chỉ cần lời đối thoại là vừa đủ”.

Nhà phê bình Roger Ebert từng đoạt giải Pulitzer chấm phim 5/5 sao, ông coi đây là "một bộ phim đầy sự điềm tĩnh và chan chứa ngọt ngào, xem nó giống như đang nghe nhạc êm dịu vậy... Đây là một bộ phim điềm tĩnh, nội tâm, trầm lặng - không có tình tiết chèo lái nhưng tập trung vào sự phát triển của cô gái trẻ”.

img

Thống kê từ trang phê bình điện ảnh Rotten Tomatoes chấm phim với điểm số cao 82%. Phim cũng được hội những người yêu phim chấm 7,4/10 điểm tại trang dữ liệu phim của IMDb.

Xích lô/Cyclo (1995)

Thành công của Mùi đu đủ xanh đã giúp Trần Anh Hùng có kinh phí để thực hiện bộ phim lớn Xích lô. Phim nói về cuộc sống khó khăn của những người dân nghèo ở TP.HCM, với sự tham gia của tài tử Hong Kong Lương Triều Vỹ và hai diễn viên từng xuất hiện trong Mùi đu đủ xanh là nghệ sĩ Như Quỳnh và Trần Nữ Yên Khê, vợ của đạo diễn Anh Hùng.

img

Xích lô cũng thành công không kém Mùi đu đủ xanh khi giành giải thưởng danh giá Sư tử vàng cho phim hay nhất tại Liên hoan phim Venice lần thứ 52 (1995).

Ở tuổi 33, Anh Hùng trở thành một trong những đạo diễn trẻ nhất chiến thắng ở liên hoan phim này. Bên cạnh đó, nhạc phim do nhạc sĩ Tôn Thất Tiết sáng tác cho phim cũng nhận giải Nhạc phim hay nhất George Delerue (tên cố nhạc sĩ lừng danh người Mỹ) tại LHP Flandre (1995).

img

Phim được đánh giá là khó hiểu vì quá tóm tắt và ít lời thoại giữa các nhân vật. Tuy vậy nữ nhà báo người Mỹ Janet Maslin lại cho rằng đây là một phong cách làm phim riêng có của nhà làm phim, giúp cho tác phẩm thêm ấn tượng và thành công.

Đáng tiếc Xích lô bị cấm chiếu ở thị trường Việt Nam khiến không ít khán giả tiếc nuối. Không ít người trong giới cho rằng Xích lô bị "án oan" đối với một tài năng điện ảnh như Trần Anh Hùng.


Mùa hè chiều thẳng đứng/À la verticale de l'été (2000)

Hai bộ phim trên khai thác nhiều về TP. HCM, với Mùa hè chiều thẳng đứng, Trần Anh Hùng chuyển sang miêu tả vẻ đẹp cổ kính của Hà Nội qua. Đây là bộ phim thứ ba của anh, nằm trong bộ tam Việt Nam trilogy.

img

Bộ phim là câu chuyện về ba chị em gái gốc Hà thành, đại diện cho ba mảnh đời tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam qua các thời kì.

Họ đều thần tượng cuộc sống gia đình của bố mẹ và phát hiện sự thật sau cái chết của người mẹ. Nói như đạo diễn Trần Anh Hùng: “Đây là tác phẩm điện ảnh đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có sự bội tín và khát vọng tình yêu đôi lứa”.

img

Khi phim được công chiếu tại Mỹ và trở thành phim có doanh thu cao thứ 282 tại Hoa Kỳ (456.000 USD) năm 2001, phim nhãn PG-13 có doanh thu nội địa năm 2001 cao thứ 87 và là phim có doanh thu cao thứ 226 năm 2001 trên toàn cầu (theo Box Office Mojo).

Tháng 7.2000 khi những tờ áp phích của phim xuất hiện tại Paris, người dân ở đây nô nức đi xem: “Dẫu có thích hay không, người Pháp thừa nhận những hình ảnh rất đẹp của một Hà Nội cổ, những thước quay rất đắt giá”, Stéphane Goudet, giảng dạy tại trường điện ảnh nổi tiếng FEMIS tại Paris nhận xét.

img

Trên trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được chứng nhận Fresh (dành cho phim được nhiều người yêu thích) với 82% đánh giá tích cực dựa trên 55 bài bình luận.

Đáng chú ý trang này dành lời bình có cánh cho phim: "điềm tĩnh một cách tráng lệ, nên thơ, ru người xem vào câu chuyện đời thường". Trang này dành cho phim điểm số 7,1/10.

img

Trang Metacritic chấm 72 điểm dựa trên 21 bài đánh giá của khán giả. Tiếng vang giúp phim được chọn chiếu tại hạng  mục Một góc nhìn (Un Certain Regard) trong khuôn khổ LHP Cannes 2000.

Rừng Na Uy (2008)

Trong năm 2008, đạo diễn Trần Anh Hùng được mời dàn dựng chuyển thể tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của nhà văn Nhật Bản Murakami Haruki lên màn ảnh rộng.

img

Chuyện phim nói về giới trẻ Nhật Bản trong bối cảnh đầy biến động những năm 1960 với nhân vật chính là chàng thanh niên Toru cùng hai người đẹp Naoko và Midori.

Phim lần đầu được công chiếu tại LHP Venice 2010 và tham gia tranh giải Gấu vàng tại sự kiện này. Sau khi ra mắt công chúng, phim nhận được nhiều lời ngợi khen từ giới chuyên môn.

img

Tờ Daily Telegraph nhận định Trần Anh Hùng đã quá “dũng cảm” khi chuyển thể một tiểu thuyết ra đời năm 1987 của nhà văn Haruki Murakami lên màn ảnh rộng.

Trên trang lưu trữ phim của IMDb chấm điểm 6,4/10 cho bộ phim dựa trên nhận xét của gần 9.000 khán giả. Trong khi trên trang Rotten Tomatoes bộ phim nhận được chứng chỉ “Fresh) với đánh giá tích cực 74% và số điểm 6,5/10.

img

Cây viết Stanley Kauffmann từ tờ The New Publish viết: “Diễn xuất chính là chìa khóa của bộ phim. Mỗi khoảnh khắc của Watanabe và Naoko đều được thể hiện một cách vừa vặn như được cất lên từ những hoài niệm hơn là từ đời sống thực”.

Trong khi tác giả Bruce Demara thừa nhận: “Bộ phim cũng giống như tiểu thuyết khi giữ nguyên được tính khó nắm bắt trong động cơ của nhân vật, vì vậy nhận được đánh giá khách quan từ người xem hơn cả”.

img

Tương tự tờ Globe and Mail nhắc đến lời nhận xét của Rick Groen khi nhận địch: “Trần đã mang tiểu thuyết ra khỏi thực tại cuộc sống”.

Những lời lẽ bay bổng dành cho bộ phim được Kimber Myers viết trên tờ The Playlist:Giống như nguyên tác của Haruki Murakami, đây thực sự là một tác phẩm điện xinh đẹp khi nắm bắt được một cách xuất sắc sự thất bại và nỗi buồn. Không ngạc nhiên khi nhận thấy phim sẽ không giúp gì được bạn hơn nếu chính bạn đang gặp rắc rối hay trầm cảm”. 

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem