Cách nào để thu hút nông dân ĐBSCL tham gia trồng lúa phát thải thấp, thu lợi nhuận cao?
Cách nào để thu hút nông dân ĐBSCL tham gia trồng lúa phát thải thấp, thu lợi nhuận cao?
Bình Minh
Thứ tư, ngày 18/09/2024 05:22 AM (GMT+7)
Các mô hình thí điểm trong khuôn khổ Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở ĐBSCL đã chứng minh được nhiều lợi ích, đặc biệt trong việc tăng năng suất. Tuy nhiên, Nhà nước cần có cơ chế để doanh nghiệp tham gia sâu rộng hơn, liên kết chặt chẽ với nông dân và các hợp tác xã.
Tại hội thảo "Thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp thông qua cơ chế thị trường" do Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) phối hợp cùng Hội Trí thức và Chuyên gia Việt Úc (VASEA) tổ chức ngày 17/9, các chuyên gia kinh tế và chính sách làm rõ những cơ hội và thách thức nhằm thúc đẩy sản xuất lúa gạo giảm phát thải thông qua cơ chế thị trường.
PGS. Chu Hoàng Long (Đại học Quốc gia Australia) cho hay, sản xuất lúa gạo là một nguồn phát thải khí nhà kính lớn ở Việt Nam và thế giới. Trong đó, sử dụng nhiều đầu vào sản xuất như: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, nước tưới. Quá trình sản xuất lúa: Phát thải khí mê tan từ đồng lúa ngập nước.
Theo ông Long, kết quả nghiên cứu cho thấy canh tác phát thải thấp cho doanh thu cao hơn. Tuy nhiên chi phí bỏ ra cũng cao hơn. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận (doanh thu trên 1 đơn vị chi phí) thấp hơn.
Bởi vậy, để tạo động lực kinh tế cho canh tác phát thải thấp, ông Long cho rằng, nông dân cần được đền bù và cơ chế thị trường được coi là công cụ hiệu quả để đền bù cho nông dân (thông qua bán tín chỉ các-bon).
Đồng tình với ông Long, chuyên gia Nguyễn Thị Hải (Đại học Quốc gia Australia) giải thích thêm, việc tham gia các dự án carbon đòi hỏi nông dân phải áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến hơn so với các phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, việc này không chỉ giúp giảm phát thải khí metan mà còn mang lại nhiều lợi ích khác, như giảm lượng nước sử dụng, giảm chi phí sản xuất và tăng năng suất.
Ngoài ra, khi cam kết canh tác lúa giảm phát thải, nông dân còn được tiếp cận các khóa đào tạo và nguồn lực, góp phần đảm bảo tính bền vững lâu dài của đất nông nghiệp.
Ông Đặng Đức Anh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương đánh giá, các mô hình thí điểm trong khuôn khổ Đề án 1 triệu ha đã chứng minh được nhiều lợi ích, đặc biệt trong việc tăng năng suất.
Tuy nhiên, Nhà nước cần có cơ chế để doanh nghiệp tham gia sâu rộng hơn, liên kết chặt chẽ với các hợp tác xã. Với xu hướng hiện nay, nếu thị trường chấp nhận chi phí cao hơn, lợi nhuận của nông dân vẫn có thể được đảm bảo, nhất là khi đi vào các phân khúc cao với quy chuẩn kỹ thuật cao hơn.
Doanh nhân Nguyễn Thị Thành Thực đồng tình và chia sẻ, cần xây dựng thương hiệu quốc gia cho các sản phẩm nông sản, nhằm tạo động lực thu hút doanh nghiệp tham gia hợp tác với nông dân.
Bà Thực nhấn mạnh, Bộ NNPTNT đang thúc đẩy chủ trương chuyển đổi sang nền kinh tế nông nghiệp, điều này đặt ra bài toán kinh tế rất quan trọng. Bà cho rằng: “Đối với ngành lúa gạo, chúng ta cần định vị người tiêu dùng sản phẩm lúa phát thải thấp là những người có thu nhập cao, quan tâm đến các yếu tố môi trường và công bằng xã hội”.
Còn theo TS. Đặng Kim Sơn - Nguyên Viện trưởng Viện Chính Sách và Chiến Lược phát Triển Nông ghiệp Nông thôn khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc kết nối thị trường nông sản. Ông cho biết, dù tổng đầu tư xã hội vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 5%, nhưng hiệu quả mà nó mang lại là rất lớn. Để có thể chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang nền kinh tế nông nghiệp xanh, vai trò của Nhà nước là không thể thiếu.
Ông Sơn cũng đề cập đến việc từ năm 2026, các nước châu Âu sẽ bắt đầu áp dụng thuế phát thải cho nông nghiệp. Nếu các sản phẩm của Việt Nam được chứng nhận là “xanh,” không những sẽ giảm được mức thuế mà còn mở ra cơ hội để xây dựng thương hiệu mới cho ngành lúa gạo Việt Nam.
TS. Đặng Kim Sơn phân tích: “Để hiện thực hóa các mục tiêu này, Việt Nam cần phải giữ vững lợi thế cạnh tranh của mình. Đồng hành cùng các cam kết quốc tế, việc xác định được các chuẩn mực về giảm phát thải là vô cùng quan trọng. Đây sẽ là cơ sở để đo lường mức giảm phát thải từ các vùng sản xuất lớn đến nhỏ lẻ, giúp tính toán chính xác lượng phát thải mà Việt Nam đã giảm được”.
Thứ trưởng Bộ KHĐT Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, Chính phủ đã triển khai một số hoạt động, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chuyển đổi xanh trong nông nghiệp. Một ví dụ điển hình là Đề án giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018 - 2025 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã thu hút 312,84 triệu USD vốn đầu tư, giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu ở cấp khu vực và toàn cầu. Ngoài ra, với những nỗ lực không ngừng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình và kế hoạch hành động khác nhau nhằm hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi xanh.
Không chỉ vậy, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến ứng dụng và chuyển giao công nghệ cũng như các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người nông dân đầu tư vào các giải pháp công nghệ xanh.
Tuy nhiên, để khai thác hết tiềm năng này, Việt Nam cần vượt qua một số rào cản. Một trong những thách thức lớn chính là nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao của ngành nông nghiệp vẫn còn hạn chế, tồn tại vấn đề thiếu chuyên gia, đội ngũ có thể làm chủ công nghệ, kỹ thuật cao; tỷ lệ lao động nông thôn chưa qua đào tạo vẫn lớn. Bên cạnh đó, việc tiếp cận các công nghệ xanh, giống cây trồng mới và nguồn vốn đầu tư còn hạn chế.
Trong khi đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp xanh cũng gặp khó khăn trong việc kết nối với các chuyên gia, tiếp cận thị trường và mở rộng quy mô sản xuất. Thiếu hụt cơ sở hạ tầng và nguồn lực cũng là một rào cản lớn cần được giải quyết để thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp này.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.