Gà che, gà tre: Chọn gà nào?

Theo Đ.T.Thành/ Báo Người lao động Thứ ba, ngày 19/04/2016 16:05 PM (GMT+7)
Gà che (có nơi còn gọi là gà tre) là cùng một giống gà bản địa, đã từng khá phổ biến tại khu vực miền Nam Việt Nam, đặc biệt là Tây Nam Bộ.
Bình luận 0

Đây là giống gà có trọng lượng nhẹ từ 300-500 g, thường được nuôi làm cảnh hoặc để những đứa trẻ chọi cho vui. Hiện nay, từ gà che hoặc gà tre rất nhập nhằng, chưa biết tên gọi nào đúng. Một số người cho rằng do nói ngọng nên từ “tre” biến thành “che”. Thực tế có phải vậy?

Trong quyển “Phong lưu cũ mới” của học giả Vương Hồng Sển (NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2004) có nhắc đến loài gà này. Ở phần thứ III - Thú chọi gà, trang 107, dòng thứ 3 có viết: “Gà cỏ tức là gà rừng nhỏ con, khi gọi gà ri, gà che, lâu ngày biến thành gà tre tưởng nó ở bụi tre, kỳ thực gà che do chữ Khmer mon-che (gà rừng xứ Thổ)”.

img

Gà che (tre) Tây Nam Bộ.

Qua nhiều chuyến đi về nơi đồng bào người Khmer sinh sống ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, tôi nhận thấy họ vẫn bảo “gà che” là chính xác. Các cụ cho rằng gà che thực chất là danh từ vay mượn từ tiếng Khmer là “mon-che”, có nghĩa là gà rừng xứ Thổ (đúng như cụ Vương Hồng Sển giải thích). Danh từ này thường tồn tại ở những tỉnh, thành nhiều người Khmer sinh sống.

Người Khmer trước đây chỉ nuôi 2 giống gà trong nhà là gà nòi hoặc gà che (gà tre). Họ không nuôi gà tàu vàng vì họ quan niệm rằng con gà tàu sức đề kháng rất yếu nên dễ bị chết toi. Ông của tôi cũng khẳng định là “gà che” có nguồn gốc từ xa xưa chứ không phải do nói đớt mà nên.

Như vậy, từ “gà che” có nguồn gốc rõ ràng, rất lâu đời chứ không phải vì nói ngọng. Đồng ý rằng người miền Tây Nam Bộ thường nói đớt âm “tr” thành “ch” nhưng trong trường hợp này thì có lẽ là không. Tuy nhiên, một số sách báo hiện nay thường viết “gà tre” hơn là “gà che”. Ở “Đại từ điển tiếng Việt” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, do Nguyễn Như Ý chủ biên) thì giải thích gà che và gà tre đều là: “Loại gà nhỏ như gà rừng, rất háo chiến, nuôi để chọi”.

Dù sao, “gà che” hay “gà tre” cũng là một tên gọi. Có thêm một từ đồng nghĩa nữa âu cũng là điều thú vị, nhằm làm sinh động và phong phú tiếng Việt. Cho nên, không cần bàn cãi tên gọi nào hợp lý vì từ nào cũng hay cả. Điều đáng quan tâm hiện nay là số lượng giống gà này ở Tây Nam Bộ suy giảm rất nhiều. Do gà che (gà tre) không mang lại hiệu quả kinh tế cao nên người dân không muốn nuôi, thịt gà này lại bở, không ngon như các loại gà khác. Một số do thả lan, không tập trung nên gà che tự giao phối với các giống gà khác rồi dần dần hình thành gà che lai (gà tre lai).

Tại một số nơi đã xuất hiện giống gà cảnh khác như gà tre Tân Châu (gà che Tân Châu) mà thực ra là một sản phẩm lai tạo từ gà che Nam Bộ (gà tre Nam Bộ) với các giống gà khác của những người nuôi gà cảnh vùng An Giang, gà Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản... đã khiến những người nuôi gà cảnh ít ỏi còn lại từ bỏ giống gà che (gà tre) nguyên thủy hoặc lai tạo chúng với các giống gà trên, làm cho giống gà này sớm đối diện nguy cơ tuyệt chủng. Đây là một nguồn gien độc đáo của Việt Nam nhưng do không được quan tâm nên số phận chúng đã gần như bị mai một và lãng quên.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem